Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

Lợi ích ăn chay

Lợi ích ăn chay

Nhân loại thời nay hầu hết đều thích ăn thịt, dẫn đến xuất hiện tràn lan các bệnh tật như: cao huyết áp, tiểu đường sỏi thận, bệnh tim, xơ cứng mạch máu. Ngạn ngữ có câu:
                     “Xưa nay trong một bát canh 
                     Oán sâu như bể hận thành non cao
                     Muốn hay nguồn gốc binh đao 
                     Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.
Từ ngàn xưa đến nay, một bát canh chúng ta ăn, nhìn qua tuy bình thường chỉ là
Làm sao tránh kiếp binh đao?

Làm sao tránh kiếp binh đao?

1. Cội gốc đưa đến chiến tranh
   Chúng ta phải hiểu rõ rằng, hết thảy nỗi thống khổ của chiến tranh từ đâu mà có? Không có điều gì là không có nhân quả. Quá khứ tạo nhân bát khổ, thì hiện tại phải chịu quả bát khổ. Hiểu được quan hệ của nhân quả thì biết ngay kiếp can qua cũng là một loại quả báo. Nhưng có một số người không tin vạn pháp đều có lý nhân quả. Bởi không học Phật, cho nên họ không tin lý nhân quả. Không tin nhân quả, vậy can qua nguyên
KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 5)

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 5)

PHẨM 5
DƯỢC THẢO DỤ
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ông Ca Diếp và các đại đệ tử: Tốt lắm, Ca Diếp! Ông khéo nói
được công đức chân thật của Như Lai. Đúng như lời các ông, Như Lai còn có vô lượng vô số công đức khác, dù các ông có nói suốt ức kiếp đi nữa cũng không hết được.
Ca Diếp, nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nói ra lời gì đều không sai không dối.
Đối với tất cả pháp, Phật dùng sức trí tuệ và phương tiện mà diễn nói. Pháp Phật nói phát
xuất từ “Nhất thiết chủng trí”. Như Lai biết chỗ quy thú của tất cả pháp; rõ biết tâm hành của chúng sinh và thường đem trí tuệ mà chỉ bày cho.
KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 4)

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 4)

PHẨM 4
TÍN GIẢI
Ông Tu-bồ-đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Mục Kiền Liên thấy Phật thọ ký cho Xá lợi Phất sẽ được thành Phật vui mừng hớn hở và phát khởi lòng tin kiên cố, rằng rồi đây mình sẽ được thành Phật. Ở trước Phật, các ông cùng nói lên lời tự trách rằng chúng con từ lâu đã tự cho rằng mình đã được Niết bàn và tự thấy đã thỏa mãn với pháp thiền: Không, Vô Tướng, Vô Tác của Tiểu thừa, không có ý chí tiến lên cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 3)

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 3)

PHẨM 3
THÍ DỤ
Lúc bấy giờ Ông Xá lợi Phất hớn hở vui mừng, đứng dậy cung kính chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật và bạch rằng: “Hôm nay con được nghe những điều Phật dạy, lòng con hân hoan chưa từng có. Bao nhiêu nghi ngờ của con đã hết. Trước kia con thường nghĩ ngợi và tự hỏi: Phật cũng ở trong Pháp tánh như mình, cớ sao Phật được là Phật, còn mình thì lại không ? Cớ sao Như Lai lại đem pháp “Tiểu thừa” mà dạy cho ?

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 2)

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ (PHẨM 2)

PHẨM 2
PHƯƠNG TIỆN
Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định bảo Xá Lợi Phất: Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bích Chi Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tùy cơ nói pháp ý thú khó lường.

Thứ Hai, 4 tháng 10, 2010

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ(PHẨM 1)

KINH PHÁP HOA – Trọn bộ(PHẨM 1)

DUYÊN KHỞI TỰ
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là một bộ kinh được lưu truyền sâu rộng ở các nước Phật giáo theo hệ tư tưởng Đại thừa. Ở Trung Quốc, vào đời Diêu Tân khoảng cuối thế kỷ thứ ba, Ngài Cưu Ma La Thập, một nhà sư người Ấn dịch từ Phạn văn ra Hán văn với nhan đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. sư Quách Hoàng, sư Trúc Pháp Hộ dịch nhan đề là Chánh Pháp Hoa Kinh. Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam những nước cùng một khuynh hướng ái mộ tư tưởng Đại thừa đề tôn trọng bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 14)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 14)

CHƯƠNG THỨ 14: CHÚC LŨY
1.- Đức Phật gọi Bồ tát Di Lặc bảo:
Này Di Lặc! Nay ta đem pháp vô thượng Chánh biến tri giác mà ta từng tụ tập chứa nhóm trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp phó chúc cho ông. Những kinh điển như thế, sau Phật diệt độ, ở hậu thế các ông hãy nổ lực truyền bá rộng rãi ở chốn nhơn gian đừng để cho giáo lý tối thượng thừa mai một. Vì sao? Bởi trong đời vị lai vẫn có kẻ thiện nam, thiện nữ và thiên long, quỷ thần, Càn thát bà, La sát v.v… có khả năng ham mộ pháp đại thừa phát tâm vô thượng Chánh biến tri giác.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 13)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 13)

CHƯƠNG THỨ 13: CÚNG DƯỜNG PHÁP
1.- Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, trước đại chúng đứng lên bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Con dù theo Phật và Văn Thù Sư Lợi từ lâu, đã nghe trăm ngàn kinh điển, nhưng chưa từng nghe kinh điển “Quyết định thực tướng, bất khả tư nghì tự tại thần thông” như vậy.
Theo sự hiểu biết của con, qua ý nghĩa và mục đích của Phật dạy: Nếu chúng con nghe theo kinh pháp này tin hiểu, thọ trì đọc tụng, tu hành đúng như kinh dạy, thì người đó đã đóng bít cửa ác thú, khai thông đại lộ Niết bàn. Người này thường được chư Phật hộ niệm, hàng phục được ngoại đạo, đánh đuổi được ma quân, tăng trưởng quả Bồ đề, vững ngồi nơi đạo tràng, bước theo dấu chân Phật mà đi.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 12)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 12)

CHƯƠNG THỨ 12: THẤY VÔ ĐỘNG NHƯ LAI VÀ THẾ GIỚI DIỆU HỈ
1.- Đức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma Cật rằng: muốn thấy một Như Lai ông phải quán sát như thế nào để được thấy?
Ông Duy Ma Cật đáp: Bạch Thế Tôn! Muốn thấy Như Lai con vận dụng pháp quán chiếu y như quán thật tướng của chính mình. Con quán Như Lai thời gian trước không có đến. Thời gian sau không có đi. Thời hiện tại không trụ. Quán Như Lai con không dựa trên sắc cũng không dựa trên thể chơn như của sắc, không dựa trên tánh của sắc, thọ, tưởng, hành cũng vậy. Cho đến không dựa trên thức mà quán cũng không dựa trên thể chơn như của thức, không dựa trên tánh của thức.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 11)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 11)

CHƯƠNG THỨ 11: VIỆC LÀM CỦA BỒ TÁT
1.- Đức Phật đang thuyết pháp ở trong một vườn xoài cây to hàng rợp bóng. Lúc bấy giờ đất vườn bỗng nhiên trở nên rộng rãi bao la khác thường, cành lá vườn cây đổi màu mơn mởn xanh tươi, trăm hoa đua nở rực rở sắc màu, lã lướt đong đưa trong làn gió nhẹ. Cảnh vật tựa như hân hoan chào đón…Tất cả đại chúng trong hải hội tự nhiên đều trở thành màu hoàng kim rạng rỡ hào quang.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 10)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 10)

CHƯƠNG THỨ 10: PHẬT HƯƠNG TÍCH
1.- Ông Xá Lợi Phất nghĩ rằng: giờ ngọ trai sắp đến, rồi đây chư Bồ tát sẽ thọ thực bằng gì?
Trưởng giả Duy Ma Cật biết được thâm ý của ông Xá Lợi Phất, bèn bảo rằng:
Thưa ngài Xá Lợi Phất! Đức Phật dạy tám môn giải thoát ngài lãnh thụ thi hành. Há để xen tạp ý nghĩ về ăn trong lúc nghe pháp vậy sao? Nếu muốn ăn thì hãy đợi giây lát. Ngài sẽ được thức ăn chưa từng có.
Ông Duy Ma Cật liền nhập định, vận dụng sức thần thông khiến cho đại chúng thấy rõ, ở thượng phương thế giới trải qua bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật có quốc độ tên gọi là Chúng Hương.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 9)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 9)

CHƯƠNG THỨ 9: CHỨNG NHẬP PHÁP MÔN KHÔNG HAI
1.- Ông Duy Ma Cật long trọng nói với các Bồ tát rằng:
Thưa chư nhơn giả! Tôi xin trân trọng đề nghị chư Bồ tát trong hội này, mỗi người tự trình bày sự chứng đắc và thể nhập pháp môn không hai của một Bồ tát như thế nào?
Trước hết vị Bồ tát hiệu là Pháp Tự Tại trình bày: Thưa chư nhơn giả! Sanh và diệt là hai. Vạn pháp xưa không sanh, nay không diệt. Tỏ ngộ được pháp nhẫn vô sanh đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
Bồ tát Đức Thủ nói: Ngã và ngã sở là hai. Vì có ngã cho nên có ngã sở. Tôi nhận thức rằng nếu không có ngã thì không có ngã sở. Do duyên cớ đó, tôi thể nhập pháp môn không hai.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 8)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 8)

CHƯƠNG THỨ 8: CON ĐƯỜNG PHẬT
1.- Bồ tát Văn thù Sư Lợi nói:
Thưa ngài Duy Ma Cật! Bồ tát phải làm gì để con đường Phật được thông suốt? Ông Duy Ma Cật đáp: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ tát muốn con đường Phật
được thông suốt, phải đi con đường ngược lại. Đi con đường ngược thì con đường Phật sẽ
thông suốt.
Bồ tát Văn Thù hỏi: Đi con đường ngược, Bồ tát phải đi như thế nào?
DUY MA CẬT – Tập II ( Chương 7)

DUY MA CẬT – Tập II ( Chương 7)

CHƯƠNG THỨ 7: QUÁN CHÚNG SANH
1.- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Đối với chúng sanh, Bồ tát quán chiếu và thấy như thế nào?
Ông Duy Ma Cật nói: Bồ tát quán thấy chúng sanh như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do huyễn thuật hóa ra. Lại ví như như người trí thấy trăng trong nước, như bóng trong gương, như sóng nắng lúc trời nắng gắt của ngày hè, như vang của tiếng, như mây trong không, như bọt trên mặt nước, như bong bóng dưới cơn mưa, như sự bền chắc của cây chuối, như sự dừng lâu của tia chớp lưng trới, như đại thứ tám, như ấm thứ sáu, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín.
DUY MA CẬT – Tập II (Chương 6)

DUY MA CẬT – Tập II (Chương 6)

CHƯƠNG THỨ 6: BẤT TƯ NGHÌ
1.- Ông Xá Lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng chẳng có một chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất trống trơn như thế này, chư Bồ tát và Thanh văn chúng rồi sẽ ngồi vào đâu?
Biết ý nghĩ của Ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn hỏi:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi mà đến?
- Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ông Xá Lợi Phất đáp.

Thứ Năm, 13 tháng 5, 2010

Luân hồi

Luân hồi

Bao lâu Nghiệp Lực tồn tại thì còn luân hồi, vì con người chỉ là biểu tượng cụ thể của Nghiệp Lực (Kammic force) không trông thấy nầy. Chết không gì khác hơn là sự chấm dứt tạm thời của hiện tượng tạm bợ ấy, chứ không phải là sự hủy diệt hoàn toàn của con người đó. Cuộc sống hữu cơ kết thức, nhưng Nghiệp Lực tồn tại hoàn toàn không bị xáo trộn bởi sự tan rã của thân xác nhất thời nầy: sự chấm dứt chập tư tưởng (cuối cùng) của người chết hiện tại quyết định một thức mới trong kiếp sống sau.
Đi lễ chùa

Đi lễ chùa

Mục đích đi chùa không phải là để cúng lạy, mà vì học hỏi chính pháp, tập tu đức hạnh. Người Phật tử mới đến với đạo chưa thấm nhuần Phật pháp, nếu không được sự chỉ dạy của Tăng Ni thì làm sao hiểu đạo tu hành.
Sám hối

Sám hối

Sám hối là ăn năn hối cải. Những tội lỗi đã làm, chúng ta hổ thẹn, ăn năn không dám tái phạm; những tội lỗi đang làm và sẽ làm, chúng ta hứa sửa đổi không làm. Không phạm tội cũ, không tạo lỗi mới, là chủ yếu của pháp sám hối.
Hãy cùng nhau niệm Phật

Hãy cùng nhau niệm Phật

Niệm Phật là điều kiện quý báu nhất, giúp ta tiếp xúc trực tiếp được với chư Phật mười phương và ba đời, và là điều kiện gọi mời hay đánh thức Đức Phật trong tâm ta đản sinh hay thị hiện giữa cuộc đời, để giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau và cùng nhau dựng xây Tịnh độ.

Thứ Bảy, 1 tháng 5, 2010

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 10 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 10 )

CHƯƠNG THỨ MƯỜI
I – NHỮNG NHẬN THỨC SAI LẦM THUỘC PHẠM VI HÀNH ẤM
A Nan ! Thiền giả tu tập tam ma đề khi tưởng ấm đã hết thì những tư tưởng bình nhật của người đó đã diệt hết; lúc ngủ, khi thức luôn luôn được giác chiếu rỗng lặng như hư không trong sạch. Những mộng tưởng thô trọng không còn; Nhìn xem cảnh vật, núi, sông, đất liền như một tấm gương trong sáng, đến đi không vướng mắc, qua lại bặt dấu chân, chỉ còn một tánh tinh chân tịch tĩnh. Căn nguyên của mọi hiện tượng sanh diệt từ đây phô
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 9 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 9 )

CHƯƠNG THỨ CHÍN
I – TRỜI SẮC GIỚI
A Nan ! Người nào giữ được thân không làm việc dâm dục và không nhớ nghĩ, lòng ái nhiễm không sanh thì đã vượt ra cõi Dục làm bạn bè với hàng Phạm hạnh, gọi đó là trời Phạm chúng.
Người đã trừ được tập quán ngũ dục, tâm ly dục hiện tiền vui vẻ thuận theo các luật nghi, có thể thực hành Phạm đức gọi đó là trời Phạm phụ.
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 8 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 8 )

CHƯƠNG THỨ TÁM
I – PHẬT DẠY BA MÓN TIỆM THỨ
Thế nào là ba món tiệm thứ ? Một là tu tập, trừ các trợ nhân.
Hai là chân tu, trau dồi chánh tánh.
Ba là tăng tiến, ngược dòng hiện nghiệp. Thế nào là trừ các trợ nhân ?
Nầy A Nan ! Mười hai loại chúng sanh trong thế giới không thể tự toàn thánh thiện, cần phải nương theo bốn cách ăn mà được tồn sinh. Đó là đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Vì vậy, Như Lai nói tất cả chúng sanh nhờ ăn mà được sống còn.
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 7 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 7 )

CHƯƠNG THỨ BẢY
I – PHẬT KHAI THỊ VỀ HIỆU NĂNG CỦA MẬT GIÁO
Phật dạy: A Nan ! Người muốn thể nhập tam ma đề (chánh quán) tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu đạo Bồ tát, trước hết cần giữ luật nghi trong như giá, sạch như sương để chặn đứng những hành động bất thiện của thân khẩu ý tam nghiệp. Và cũng từ đó lục căn tự tại đối với lục trần, các ma sự không có cơ hội lung lạc hoành hành.
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 6 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 6 )

CHƯƠNG THỨ SÁU
DO NHĨ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRẦN THUẬT PHÁP TU CHỨNG CỦA MÌNH
Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy cung kính chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn !
Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước, có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp nghe, suy nghĩ và tu để được thể nhập tam ma đề (chánh định).
Bạch Thế Tôn ! Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy; từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được năng văn và sở văn. Sức
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 5 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 5 )

CHƯƠNG THỨ NĂM
HIỂU BIẾT CHỒNG THÊM HIỂU BIẾT LÀ GỐC RỄ CỦA VÔ MINH. HIỂU BIẾT VẠN PHÁP ĐÚNG NHƯ THẬT
LÀ NHÂN TỐ CỦA NIẾT BÀN HIỆN TẠI
ÔNG A NAN LẠI HỎI VẤN ĐỀ MỞ GÚT
Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Dù Phật đã dạy nghĩa quyết định thứ hai về công việc tháo mở gút. Song tôi nghĩ rằng những người mở gút nếu không biết đầu mối của gút ở đâu thì ắt hẳn không thể nào mở được.
Bạch Thế Tôn ! Tôi và hàng Thanh Văn hữu học trong hội này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng tôi cùng sanh cùng diệt với các thứ vô minh, tuy được nghe nhiều Phật, Pháp, mang tiếng xuất gia mà như người sốt rét cách nhật (ý nói chợt giác chợt mê). Xin đức
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 4 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 4 )

CHƯƠNG THỨ TƯ
PHẬT THUYẾT MINH TÁNH CỦA CÁC
ĐẠI VỐN KHÔNG NGĂN NGẠI GÌ NHAU,
NHẰM KHAI THỊ CHƠN LÝ: SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC
Bấy giờ ông Phú Lâu Na ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
Thế Tôn khéo vì chúng sanh mà diễn bày đệ nhất nghĩa đế. Từ lâu tôi được Thế Tôn khen là thuyết pháp đệ nhất trong hàng người thuyết pháp. Vậy mà nay tôi nghe pháp âm
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 3 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 3 )

CHƯƠNG THỨ BA
TRONG THÂN THỂ VÔ THƯỜNG SANH DIỆT
CÒN CÓ CÁI THƯỜNG, BẤT SANH BẤT DIỆT
Ông A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình vô thỉ đến nay bỏ mất bổn tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm. Ngày nay được Phật khai ngộ, như em bé mất sữa bỗng được gặp mẹ hiền, đồng chấp tay lễ Phật, cầu xin chỉ cho chỗ chân vọng thực hư, ở nơi thân tâm hiện tiền phát minh hai tánh: sanh diệt và không sanh diệt.
Bấy giờ vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa:
- Bạch Thế Tôn: Khi chưa được gặp Phật, tôi nghe bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử nói rằng: Thân này chết rồi là mất hẳn, gọi đó là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nghe
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 2 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 2 )

CHƯƠNG THỨ HAI: GẠN HỎI CÁI TÂM

TÂM LÀ CĂN BẢN CỦA BỒ ĐỀ NIẾT BÀN VÀ CŨNG LÀ CĂN BẢN CỦA
LUÂN CHUYỂN SANH TỬ
Khi gạn hỏi cái tâm, lần đầu tiên ông A-Nan thưa với Phật: Rằng tâm là sự hiểu biết của ông, là cái sanh ra sự ưa thích và ham muốn ở trong ông. Như khi mắt ông nhìn thấy 32 tướng tốt của Phật và từ đó ông phát tâm xuất gia theo Phật tu hành mong được xuất ly sanh tử…
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 1 )

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 1 )

LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa. Từ xưa nhẫn nay, khắp chốn tòng lâm, những hàng long tượng trong giới truy lưu đều xem Thủ Lăng Nghiêm kinh là một trong những bộ kinh then chốt trong nền giáo lý Phật. Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật Đế và Di Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
Mãi đến đời nhà Minh (1366-1661) tư tưởng Thủ Lăng Nghiêm, được các

Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 12)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 12)

CHƯƠNG MƯỜI HAI
BIỂN CẢ DUNG CHỨA NƯỚC HẾT THẢY SÔNG NGÒI KHE LẠCH
VIÊN GIÁC ĐẠI THỪA GIÁO LỢI ÍCH KHẮP CĂN CƠ
Bấy giờ Hiền Thiện Thủ Bồ tát trước đại chúng đảnh lễ Phật chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Đại chúng trong hội nầy được nghe Thế Tôn dạy cho giáo lý bất tư nghì như thế, khiến cho hoa lòng bừng nở, tuệ nhãn được sáng trong. Chúng con muốn biết Đại thừa kinh giáo nầy, tên gọi là chi? Chúng con phải phụng trì như thế nào? Chúng sanh nương kinh nầy tu tập, công đức sẽ ra sao và những người truyền bá kinh nầy được lợi ích như thế nào? Cúi mong Như Lai Thế Tôn vì chúng con dạy bảo.
Phật dạy: Hiền Thiện Thủ! Ông vì chúng sanh hậu thế mà thưa hỏi Như Lai. Những điều ông hỏi rất có ý nghĩa cần cho sự hiểu biết, mở được mối nghi ngờ cho nhiều người mạt thế. Vậy ông hãy lóng ý mà nghe Như Lai sẽ vì các ông mà nói.
Nầy, Hiền Thiện Thủ! Kinh nầy trăm ngàn muôn ức hằng sa chư Phật nói ra và ba đời các Như Lai đều bảo hộ, mười phương Bồ tát làm chỗ quy y, là con mắt trong sáng của mười hai bộ kinh trong toàn bộ giáo lý Phật.
Kinh nầy có thể gọi nhiều tên.
• Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni.
• Tu Đà La Liễu Nghĩa.
• Bí Mật Vương Tam Muội.
• Như Lai Quyết Định Cảnh Giới.
• Như Lai Tàng Tự Tánh Sai Biệt.
Bồ tát và Chúng sanh đời sau nương theo danh tự đó mà phụng trì. Nầy, Hiền Thiện Thủ ! Kinh nầy dạy rõ về cảnh giới của chư Phật, cho
nên chỉ có Phật mới tuyên thuyết trọn nghĩa. Các Bồ tát và chúng sanh đời
sau y theo kinh nầy tu hành lần lần tiến đến địa vị Phật.
Kinh nầy thuộc về “Đốn Giáo Đại Thừa”. Những chúng sanh căn cơ Viên Đốn, từ kinh nầy mà mở mang tuệ nhãn, tỏ ngộ chân lý Đại thừa, nắm vững và thành thạo tất cả pháp môn tu tập khác. Ví như biển cả dung chứa nước hết thảy sông ngòi khe lạch. Sức uống của thần A Tu La còn chưa thấy kém vơi, sá gì sự nhắm nhí của những muỗi mòng bé nhỏ.
Nầy, Hiền Thiện Thủ ! Giả sử có người đem thất bảo nhập đầy cõi tam thiên đại thiên làm việc bố thí, phước đức không bằng người nghe một câu một đoạn nghĩa lý của kinh nầy. Giả sử có người giáo hóa chúng sanh chứng được. A La Hớn quả nhiều như số cát sông Hằng, không bằng
người tuyên nói giảng giải kinh nầy chừng nửa bài kệ.
Hiền Thiện Thủ! Nếu có người nghe tên kinh nầy mà lòng tin không tin không nghi hoặc, phải biết người đó không phải trồng căn lành ở một, hai, ba, bốn, năm đức Phật mà đã trồng căn lành và đã từng nghe kinh nầy trong hằng hà sa số Phật rồi.
Bồ tát các ông nên bảo hộ những người tu hành ở đời sau, đừng để cho những ác ma và ngoại đạo não hại thân tâm làm cho nãn lòng thối chí.
Bấy giờ chúng hội có Hỏa Thủ Kim Cang, Tồi Phá Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang… cả tám vạn thần Kim Cang và quyến thuộc, đảnh lễ Phật, đi nhiễu ba vòng và bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn ! Tất cả chúng sanh đời sau, người nào thọ trì kinh điển Quyết Định Đại Thừa nầy, chúng con sẽ giữ gìn bảo hộ cho họ như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Chúng con cũng bảo hộ chỗ ở của người tu hành túc trực ngày đêm, khiến cho bổn mạng bình an, sung mãn trong cuộc sống để họ vững bước tiến tu.
Lại có Đại Phạm Thiên Vương, Tu Di Sơn Vương, Hộ Quốc Thiên Vương… và Đại Lực Quỷ Vương cùng với mười vạn quỷ vương quyến thuộc đồng chấp tay đi quanh Phật ba vòng đồng thanh tác bạch:
Bạch Thế Tôn ! Chúng con nguyện bảo hộ người thọ trì tu tập kinh nầy, ngày đêm liên tục, khiến cho chỗ ở được an ổ, trong phạm vi bao quát một do tuần, nếu có quỷ thần nào xâm phạm, chúng con sẽ khiến cho thân thể chúng biến thành tro bụi.
Phật nói xong thời pháp, tất cả thiên long, quỷ thần, bát bộ quyến thuộc và các Thiên Vương, Phạm Thiên Vương… cùng toàn thể đại chúng rất vui mừng tin nhận y giáo phụng hành.
TRỰC CHỈ
Phật dạy cho Bồ tát Hiền Thiện Thủ: “Kinh nầy trăm ngàn muôn ức hằng hà sa Phật nói ra, ba đời các Như Lai đều thủ hộ, mười phương Bồ tát làm chỗ quy y là con mắt trong sáng của 12 bộ kinh trong toàn bộ giáo lý Phật”.
Thật vậy, lửa thì nóng, băng thì lạnh. Dù cho hằng hà sa chư Phật ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, cũng đều nói lửa nóng, băng lạnh, vì đó là chân lýcủa vũ trụ vạn hữu, của cuộc đời, không ai có thể nói khác hơn được. Và khi cần sưởi ấm, nấu chín thức ăn thi ai cũng phải dùng đến lửa, khi cần mát lạnh cần nước thì ai cũng phải tìm băng. Kinh Như Lai Viên Giác liễu nghĩa Đại thừa đức Phật Thích Ca nói cũng tức là chư Phật ba đời nói. Vì nội dung giáo lý kinh Phật nói ra toàn chân lý liễu nghĩa và mười phương Bồ tát cũng chỉ quy y với kinh Đại thừa liễu nghĩa mà thôi.
Mười hai bộ kinh: Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Thí dụ, Nhơn duyên, Tự thuyết, Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu, Phương quảng, Nghị luận và Ký biệt. Trong mười hai bộ loại đó, có hệ tư tưởng liễu nghĩa, có hệ tư tưởng nhơn, thiên, tiểu giáo, quyền thừa bất liễu nghĩa. Kinh Như
Lai Viên Giác là con mắt trong sáng Đại thừa liễu nghĩa trong mười hai bộ
kinh.
Kinh nầy có thể gọi bằng năm thứ tên, cũng như các kinh khác đều có thể gọi hoặc nhiều hoặc ít tên như vậy. Điều đó tuỳ thuộc ở trọng tâm triển khai, ở góc độ nhìn và nhận thức giáo lý.
Trọng tâm của kinh nầy, nhằm khai thị về pháp “đốn tu đốn chứng” cho nên kinh nầy thuộc “đốn giáo đại thừa”. Tuy vậy, biển cả thì dung chứa tất cả nước sông ngòi, khe lạch. Các cơ giáo khác cũng có thể tu học và vẫn có được lợi ích. Người nghe kinh nầy mà tin hiểu, trong lòng không nghi hoặc là người trồng sâu căn lành, trong nhiều đời đã gặp gỡ Phật pháp rồi. Vì vậy, người nghe kinh nầy phải là người rất nhiều phước đức là người gieo trồng sâu hạt giống Đại thừa.
Tu học kinh nầy thiên long, bát bộ, quỷ thần đều ủng hộ khiến cho mọi tai ương bất trắc không thể xảy đến nhiễu hại. Bởi vì người nầy đã đóng bít cánh cửa “hại nhơn” rồi.
“Tước trác tứ cố thực. Yến tẩm vô nghi tâm. Lượng đại phước diệc đại. Cơ thâm hoạ diệc thâm.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 11)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 11)

CHƯƠNG MƯỜI MỘT
XA MA THA TAM MA BÁT ĐỀ VÀ THIỀN NA TRONG BƯỚC ĐƯỜNG TU TẬP
Bấy giờ, Viên Giác Bồ tát trước đại chúng đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Đại chúng trong hải hội đã được Phật chỉ dạy rõ con đường trở về nhà Viên Giác. Những người sơ cơ hậu thế, đã tỏ ngộ Như Lai Viên Giác Diệu Tâm rồi, đối với ba pháp Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề
và Thiền Na phải tu pháp nào trước? Cúi mong Như Lai vì chúng sanh hậu thế dạy rõ khiến cho họ được gội nhuần mưa pháp !
1. Phật dạy: Nầy Viên Giác ! Phật còn trụ thế hay đã nhập Niết bàn, những chúng sanh có chủng tánh Đại thừa, tin NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là kho tàng bí mật của chư Phật thì có thể ở chốn tòng lâm trụ nơi am tự hoặc ở tại gia y theo ba pháp, trước sau thay đổi thành 25 cách như Thế Tôn đã dạy thì kết quả không có gì sai khác. Nếu có duyên cớ thì có thể kiến lập chỗ tu riêng, định kỳ hạn 120 ngày, 100 ngày hoặc 80 ngày tùy ý. Tư duy chơn chánh, quán niệm chơn chánh là nền tảng trong vô lượng pháp môn tu dù Phật tại thế hay đã Niết bàn, người quán niệm tư duy
đúng pháp thì sẽ có kết quả khinh an giải thoát. Khởi ý tiến tu, phải y cứ Đại thừa, hành tịch diệt hạnh, lấy Đại Viên Giác làm đối
tượng sở quy và quán chiếu thật tướng trên lộ trình cầu tiến. Thân tâm hướng vào bình đẳng tánh trí, phải xác định tự tánh Niết bàn không lúc nào tách rời cuộc sống thực tại.
Người phát khởi ý hướng Đại thừa tu tập Viên Giác, an trụ chỗ nào thì chỗ đó được xem như cảnh già lam.
2. Nầy Viên Giác ! Nếu tùy theo tâm tánh của đa số thì có thể tu pháp Xa Ma Tha trước, Xa Ma Tha có công dụng chặn đứng vọng tưởng đem lại cho hành giả một trạng thái “tịch tĩnh” khinh an. Từ trạng thái tịch tĩnh khinh an có thể phát sanh tuệ giác để nhận thức chân lý trên đường tu tập tiếp theo.
Nếu người tâm nhiều vọng động cần tu Tam Ma Bát Đề trước, vì có đối tượng sở quán, họ mới dễ được tĩnh tâm.
Hai pháp môn “Chỉ” “Quán” trên nếu chưa thích hợp, thì hành giả có thể tu tập “Thiền”. Thiền là pháp tu tư duy, tùy thuộc căn tánh sở thích. Nếu pháp đối tượng tư duy không thích hợp thì lâu có kết quả hoặc không đem lại kết quả thậm chí phản tác động, có hại, người tu cần thận trọng lưu tâm
! Tư duy “đếm hơi thở” là pháp phổ thông cho mọi người ham mộ pháp môn Thiền trên bước đường sơ cơ tu tập.
Chọn một trong ba pháp, pháp nào cũng có thể đem lại sự khinh an giải thoát, vấn đề trước sau không có gì trở ngại. Riêng hạng người ba pháp tu cùng một lúc thành tựu viên mãn, thì đó là hình ảnh của Như Lai xuất hiện trên cõi đời.
Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Viên Giác ông nên biết. Tất cả các chúng sanh. Muốn cầu vô thượng đạo. Có thể lập định kỳ.
Tu tập chánh tư duy. Xa Ma Tha “Chỉ tức”. Tam Ma Đề “Quán niệm”. Thiền Na “Sổ tức môn”.
“Tam tịnh quán” đồng thời. Chuyên cần tu viên mãn. Là Phật hiện ra đời.
Người độn căn tiểu trí. Sám hối nghiệp lậu xưa. Các chướng diệt hết rồi. Cảnh Phật bèn hiển hiện.
TRỰC CHỈ
1. Pháp CHỈ, QUÁN và THIỀN NA có thể thay đổi trước sau thành 25 cách như lời Phật dạy ở chương tám trước kia. Tùy người, tuỳ hoàn cảnh có thể thay đổi, nhưng nếu sự tu hành thanh tịnh như nhau thì kết quả ngang nhau không hơn kém. Vấn đề quyết định trước hết phải là người chủng tánh Đại thừa, tin sâu và xác định NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là tâm tánh vốn có của mình.
Về chỗ ở để tu không quan trọng, mà quan trọng ở chủng tánh, ở trí tuệ sáng suốt quyết định lòng tin hiểu đối với chân lý với NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM. Ở chùa tu cũng được, ở tại gia tu cũng được, lập riêng một chỗ nào đó ở tu cũng được. Sức tinh tấn và thanh tịnh ngang nhau thì quả giải thoát giác ngộ bằng nhau. Ấn định kỳ hạn 80 ngày cũng
được 120 ngày cũng được, điều đó do hoàn cảnh vả khả năng phát nguyện của mỗi người. Vấn đề then chốt vẫn là: Phát ý Đại thừa. Lấy Như Lai Viên Giác làm đối tượng quay về.
2. Theo tâm lý thông thường thì nhiều người thích hợp với pháp tu “Chỉ” trước, rồi kế đó tu “Quán”. Tuy vậy, cũng có người nhờ vận dụng “Quán” trước thì “Chỉ” mới tĩnh được. Như trên đã nói, việc đó tùy người. Chỉ, quán mà chưa điều phục được vọng tâm thì tu Thiền Na áp dụng phương pháp phổ thông cơ bản là “sổ tức quán”, theo dõi hơi thở và đếm hơi thở ra vào. Pháp môn nầy là một phương tiện cột tâm rất hữu hiệu.
Những bậc cao tăng uyên thâm đạo vị, các Ngài thường sử dụng cả ba pháp trong cuộc sống hằng ngày mà không có khởi ý dụng công. Nếu người an trú trong CHỈ, QUÁN và THIỀN NA không xen tạp tưởng, Phật nói đó là hình ảnh Như Lai xuất hiện ở cõi đời.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 10)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 10)

CHƯƠNG MƯỜI
TÁC NHẬM CHỈ DIỆT LÀ BỐN CĂN BỆNH TRỞ NGẠI TIẾN TRÌNH VỀ NHÀ NHƯ LAI VIÊN GIÁC
1. Bấy giờ, Phổ Giác Bồ tát trước đại chúng đảnh lễ Phật, quỳ gối chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Chúng sanh đời sau cách Phật ngày xa, hiền thành ẩn dật, tà giáo xuất đầu, vậy phải cầu học với hạng người nào? Nương pháp chi? Hành những hạnh gì? Trừ bỏ những gì là bệnh? Và phát tâm như thế nào, khiến cho những người chưa có mắt tuệ khỏi rơi vào tà kiến?
Thưa hỏi xong, Bồ tát Phổ Giác ngũ thể lễ sát đất rồi trở về bản vị. Phật dạy: Phổ Giác ! Ông khéo hỏi Như Lai những điều tế nhị có
thể khiến cho chúng sanh có được đạo nhãn vô úy ở đời sau.
2. Nầy, Phổ Giác ! Chúng sanh đời sau muốn phát ý Đại thừa tâm cầu thiện tri thức và muốn tu hành thì phải tìm người chánh tri kiến, tâm không trụ chấp các tướng, không vướng mắc trong tư tưởng của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, bề ngoài thì biểu hiện trần lao nhưng tâm hằng thanh tịnh, giả hiện các lỗi lầm mà luôn ngợi khen phạm hạnh, không xúi giục người sống trái luật nghi. Cầu học với những người đó thì không lâu sẽ thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Chúng sanh đời sau gặp được những người như thế, phải nên cúng dường cho đến không tiếc thân mạng.
Nầy, Phổ Giác! Người thiện tri thức ấy, đối với pháp sở chứng đã tự viễn ly bốn bệnh rồi !
Bốn bệnh là những gì ?
3. Một, bệnh TÁC. Giả như có người nói: vì cầu Viên Giác, tôi phải
LÀM, phải phấn đấu phát tâm chuyên tu khổ hạnh, phải ít ngủ bới ăn… nhưng chánh nhơn để vào nhà Viên Giác không phải do
“làm” mà được. Vì vậy, gọi TÁC là một chứng bệnh.
Hai, bệnh NHẬM. Giả như có người nói: Tôi không cần đoạn trừ sanh tử, cũng chẳng mong chứng được Niết bàn. Niết bàn và sanh tử không cần phải mong muốn hay đoạn trừ. Cứ MẶC KỆ BUÔNG TRÔI theo dòng pháp tánh… nhưng tánh Viên Giác không phải là tánh “mặc kệ buông trôi”. Vì vậy, gọi NHẬM là một chứng bệnh.
Ba, bệnh CHỈ. Giả sử có người nói: Trên đường tu hành, tôi chỉ cần NGƯNG BẶC niệm lự để hợp với tánh tịch nhiên của Viên Giác. Ý tưởng đó không đúng, vì tánh Viên Giác không phải là tánh “ngưng bặc”. Vì vậy, gọi CHỈ là một chứng bệnh.
Bốn, bệnh DIỆT. Giả sử có người nói: Tôi nay đoạn trừ tất cả phiền não, thân tâm, căn trần. Vì tất cả là cảnh giới hư vọng cần phải đoạn DIỆT, nhưng Viên Giác không phải là tứơng “đoạn diệt”. Vì vậy cho nên gọi DIỆT là một chứng bệnh.
Trên đường tu cần phải xa rời bốn chứng bệnh như vậy. Xa rời bốn bệnh tức là xa rời những cái nhân “phi nhân” không phù hợp chân lý.
4. Nầy, Phổ Giác ! Chúng sanh đời sau muốn tu hành phải hết lòng cúng dường phụng sự gần gũi người thiện tri thức của mình. Ơ gần thì một lòng kính trọng, ở xa phải luôn nhớ những ý tốt lời lành. Nếu người có biểu lộ những cảnh bằng lòng hoặc trái ý hãy quán niệm như chẳng có gì, thân tâm của mình, của mọi người đều đồng thể bình đẳng. Nên nhớ, chúng sanh không được thành đạo do có những quan niệm thương, ghét, ta, người, hơn, thua, tốt, xấu…
Nếu có người xem oan gia như cha mẹ không có ý tưởng hai; ân oán bình đẳng không khởi tâm thương ghét, Như Lai nói người như thế, không bao lâu sẽ vào đến nhà Viên Giác.
Nầy, Phổ Giác ! Chúng sanh đời sau muốn cầu Viên Giác phải phát lời thệ
nguyện:
“Tất cả chúng sanh, cùng tận thế giới hư không, tôi đều phụng sự khiến cho họ được vào nhà Như Lai Viên Giác và chừa bỏ tất cả ý niệm triền phược bỉ thử ngã nhơn…
Người phát tâm tu hành như vậy sẽ không rơi vào tà kiến. Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Phổ giác ông nên biết. Hậu thế các chúng sanh. Muốn cầu thiện tri thức. Nên cầu người chánh kiến. Tâm không ở Nhị thừa. Pháp hành ly bốn bệnh.
Là TÁC, NHẬM, CHỈ Ơ gần thì tôn kính. Cách biệt nhớ lời răn. Khi thấy hiện tướng gì. Nên sanh lòng hi hữu. Kính như Phật tại thế.
Không phạm các oai nghi. Giới căn đều thanh tịnh. Độ tất cả chúng sanh. Trọn vào nhà Viên Giác. Bỉ thử ngã nhơn tướng. Dùng tuệ giác chiếu soi. Đường tu y chánh pháp. Tà kiến khỏi rơi vào. Ngày về nhà Viên Giác Niết bàn bến gần kề.
TRỰC CHỈ
1. NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ MỆNH là bốn chứng bệnh chướng ngại Bồ đề. TÁC, NHẬM, CHỈ, DIỆT lại là bốn chứng bệnh cắt đức con đường Niết bàn. Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mệnh, phát sanh từ nơi “chấp”. Tác, nhậm, chỉ, diệt lại cũng phát sanh từ nơi “chấp”. Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mệnh phát sanh từ nơi “chấp ngã tướng”. Tác, nhậm, chỉ, diệt phát sanh từ nơi “chấp pháp tu”. Dù chấp “ngã tướng” hay chấp “pháp tu” căn nguyên vẫn là chấp. Trên đường tu Phật, chấp là điều cấm kỵ đứng đầu trong những gì cấm kỵ.
2. Trên đừơng tu Thiện tri thức rất là quan trọng. Thiện tri thức có ba hạng. Giáo thọ Thiện tri thức tức là bậc thầy dẫn dắt, giảng dạy chánh pháp cho ta. Đồng hạnh Thiện tri thức là những người cùng một lý tưởng cùng pháp chí tu hành cùng mong cầu giải thoát giác ngộ. Ngoại hộ Thiện tri thức là những người bảo hộ cho ta được yên ổn được có đủ điều kiện tốt để ta hành đạo. Ba hạng người đó là Thiện tri thức của ta. Tuy nhiên, những ngừơi đó phải là người “chánh tri kiến”, người không vướng mắc các Tướng, người không có tư tưởng cục bộ Tiểu thừa. Người Thiện tri thức của ta phải là người Đại thừa phóng khoáng. Bề ngoài như tuỳ thuận trần lao mà tâm thường viễn ly và thanh tịnh. Giả hiện các lỗi lầm mà luôn
luôn ngợi khen phạm hạnh. Không hưởng ứng và tùy hỷ với những người có hành động trái phạm luật nghi. Người Thiện tri thức như thế đối với pháp sở chứng đã viễn ly bốn bện. Phải nên tôn trọng cúng dường người Thiện tri thức như vậy cho đến không tiếc thân mạng.
3. Một, bệnh TÁC, chữ TÁC có nghĩa là làm. Làm có vẻ tích cực nhưng việc làm không đúng chánh nhân giải thoát.
Thực ra tu hành cốt yếu là đoạn phiền não, diệt vô minh, vun bồi trí tuệ để nhận thức chân lý, để sống hợp chân lý, để có giác ngộ giải thoát và để tự mình thọ dụng sự giải thoát giác ngộ đó trong cuộc sống hiện tại cũng như mãi mãi ở tương lai. Mục đích của chư Phật ba đời đều như vậy cả. Ơ người bệnh “tác” thì trái lại, họ dụng ý bày vẻ: Nay lập đạo tràng nầy, mai ấn định nghi thức nọ. Trì luyện canh khuya, khẩn cầu suốt tốt. Ep xac hành thân… Làm như thế chỉ khổ công mà vô ích. Người tu hành như thế gọi là người mắc phải chứng bệnh TÁC.
Hai, bệnh NHẬM. “Nhậm” có nghĩa là buông trôi không làm gì hết. Sống với dáng vẻ đờ đẫn, thẫn thờ, mặc cho thế cuộc…
Người tu hành là tinh tấn cần cù với tất cả thiện nghiệp lợi ích cho đời cho tất cả chúng sanh. Nhưng khác hơn người thường là làm mà không thấy mình làm. Làm với tâm thành “ưng vô sở trụ” chớ không phải làm như kẻ ăn sổi ở thì hững hờ với thế cuộc.
Không làm gì hết, thờ thẫn buông trôi, không phải là thiện. Không làm gì hết mà hy vọng chứng đắc Bồ đề Niết bàn, thể nhập Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, rõ là hạng người tham lam mà không đếm xỉa gì lý trí, vì vậy gọi NHẬM là một chứng bệnh.
Ba, bệnh CHỈ. “CHỈ” có nghĩa là chặn đứng là ngưng bặc, diệt hết ý niệm tư duy.
Người tu hành phải là ngừơi giàu tư duy và rất cần trí tuệ để tư duy nhận thức chân lý. “Chánh tư duy” là một trong tám con đường chánh. Tư duy không phải là vọng tưởng. Người nhiều vọng tưởng không phải là người giàu tư duy. Ngưng bặc chánh tư duy, con người trở thành vật vô tri vô giác như hình nộm, như tượng đất ích lợi cho ai ! Lợi cho đời còn không có, còn mong gì thành tựu đạo quả, vì vậy CHỈ là một thứ bệnh chướng ngại Bồ đề Niết bàn.
Bốn, bệnh DIỆT. “DIỆT” có nghĩa là triệt tiêu, hủy diệt hết.
Đức Thế Tôn thành tựu Vô Thượng Bồ Đề chính là lúc “tam minh”
ở trong Ngài hiển hiện. Trí tuệ của đức Thế Tôn lúc bấy giờ bừng tỏ rạng, mà người đời gọi là rực ánh hào quang. Từ Bồ đề thọ hạ cho đến Ta La song tho nhập Niết bàn, đức Phật không có lúc nào không sử dụng tuệ giác để làm lợi ích cho chúng sanh, bằng sự nghiệp giáo hóa suốt 49 năm của đời Ngài. Nhìn tấm gương sáng, rực ánh hào quang của đức Phật, thì ra đức Phật chẳng có lúc nào “diệt” tư duy và trí tuệ. Căn, trần không có lỗi, dụng công “diệt” nó để làm gì. Vả lại có muốn diệt cũng không sao diệt được. Vô minh huyễn vọng, không vọng chẳng tìm có vô minh. Diệt thân tâm lại trở thành kẻ điên cuồng tự sát ! Vì vậy, kẻ tu hành dụng ý “diệt” vô tình laị mang thêm chứng bệnh, khiến cho đường thẳng Niết bàn bị cắt đứt không thể tiến lên.
4. Diệt trừ bốn tướng, xa lánh bốn bệnh, oán thân bình đẳng, rửa sạch thị phi Phật nói người như thế không lâu sẽ đến nhà Như Lai Viên Giác.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 9)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 9)

CHƯƠNG CHÍN
CHỨNG NGỘ LIỄU GIÁC LÀ PHÁP CHƯỚNG NGẠI BỒ ĐỀ
Bấy giờ, Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng trước đại chúng đứng dậy đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch đấng Đại bi Thế Tôn ! Như Lai Thế Tôn vì chúng con chỉ dạy rõ về Nhơn Địa tu hành của chư Phật trong hằng sa kiếp, khiến cho đại chúng trong hải hội này được điều chưa từng có, chúng con hết sức thâm cảm vui mừng.
1. Kính bạch Thế Tôn ! Tâm Viên Giác vốn thanh tịnh, vậy do duyên cớ gì lại có nhiễm ô, khiến cho chúng sanh mê mờ không được ngộ nhập. Cúi mong Thế Tôn khai ngộ cho hậu thế chúng sanh mối
nghi lầm ấy ngõ hầu có được đạo nhãn tương lai?
Phật dạy: Tịnh Chư Nghiệp Chướng! Ông hãy thận trọng lưu tâm, nghe cho kỹ điều hệ trọng này. Như Lai sẽ vì ông mà chỉ dạy !
2. Này Tịnh Chư Nghiệp Chướng ! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp vì vọng tưởng, khởi chấp nặng sâu về bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ mệnh. Bốn tướng đó, vốn không có cái ngã thể chơn thật. Thế mà chúng sanh điên đảo vọng chấp không rời. Từ vọng chấp sanh ra ý niệm ghét thương. Từ ghét thương chồng thêm vọng chấp khác. Vọng lại sanh vọng cứ thế mà nhân lên đến đỉnh cao
cứu cánh, vọng thành tham, sân, si, mạn, các nghiệp hữu lậu. Từ
đó vọng thấy có luân hồi sanh tử. Người khởi tâm nhàm chán sanh tử lại vọng thấy Niết bàn. Do vậy, chúng sanh không vào được cảnh giới Viên Giác thanh tịnh. Không vào được, không phải cảnh giới Viên Giác ngăn cản không cho mà tại chúng sanh đánh mất tiêu chuẩn, cho nên không đủ điều kiện để vào. Vào hay không do người, Viên Giác thanh tịnh không có tướng vào ra. Nên biết, chúng sanh khởi niệm hay ngưng niệm đều thuộc phạm trù mê muội ! Bởi vì tất cả chúng sanh không có tuệ nhãn để cho vô minh sanh khởi từ vô thỉ làm chủ tề đời mình, cho nên thân tâm trở thành công cụ biểu hiện của vô minh, khó mà trừ diệt, ví như con người, không ai nở tự giết chết mệnh sống của mình. Vì vậy, nên biết! Có yêu bản ngã thì người ta nuông chìu theo bản ngã. Nếu ai không thuận chìu bèn sanh lòng oán ghét. Lòng yêu ghét lại nuôi lớn vô minh thêm, cho nên tu hành cầu đạo thì nhiều mà ít người thành Phật.
• Ngã tướng là thế nào? Ngã tướng là cái tướng mà chúng sanh cho rằng do công tu hành của mình mà mình được CHỨNG. Ví như người thân thể khỏe mạnh, chợt quên lửng mình, chẳng màng để ý mình là ai. Một hôm trái gió trở trời, lương y đến châm cứu, người bệnh có cảm nhận “ta” đau. Cho rằng mình được CHỨNG là lúc hành giả tỏ lộ “bản ngã” chấp mắc của mình.
Này, Tịnh Chư Nghiệp Chướng ! Khởi tâm cho rằng được CHỨNG là một “ngã tướng”. Dù cho “chứng đắc” Vô thượng Bồ đề, Vô thượng Niết bàn cũng đều là một hình thức “ngã tướng” mà thôi.
• Nhơn tướng là thế nào? Nhơn tướng là cái tâm NGỘ, cái tâm nhận thức rằng “ngã tướng” là cái không có thật, không nên chấp mắc “ngã tướng”. Tâm tỏ ngộ đó chính là “nhơn tướng”. Tâm tỏ ngộ đó, dù ngộ Niết bàn viên mãn cũng là bản chất từ ngã tướng, cho nên gọi đó là “nhơn tướng”.
• Chúng sanh tướng là thế nào? Chúng sanh tướng là cái vượt sâu hơn tướng “chứng” và “ngộ” trên. Nhận thức và phán đoán hai tướng “chứng” và “ngộ” đều phát xuất từ bản chất “ngã tướng” chưa đúng chân lý “ưng vô sở trụ”. Chúng sanh tướng ở đây, tức là tướng LIỄU, vì tánh chất LIỄU TRI sâu sắc của nó, đối với quá trình CHỨNG, NGỘ.
• Thọ mạng tướng là thế nào? Thọ mạng tướng là cái tâm thanh tịnh sáng soi tĩnh GIÁC. Tâm tĩnh GIÁC nầy sâu thẳm, có khả năng nhận thức cả tánh chất “LIỄU TRI” vi tế thuộc phạm trù “chúng sanh tướng” ở trên. Khả năng nhận thức thẳm sâu đó gọi là GIÁC. Vì vậy, thọ mạng tướng tức là tướng GIÁC vi tế thẳm sâu, ví như mạng căn trong một con người.
Tâm “tĩnh giác” sáng soi dù vi tế cũng vẫn chưa rời trần cấu. Bởi lẻ còn “giác” thì còn có “năng giác” “sở giác” hiển nhiên. Phải học cách tư duy chân lý, như người nhìn cảnh tượng băng tan trong vạc nước sôi. Băng tan hết rồi, không còn gì lưu lại. Nếu còn sót lại ý niệm biết băng tan, ý niệm đó còn lệch lạc chưa viên dung vào thực tướng. Tánh GIÁC để nhận biết CHỨNG, NGỘ, LIỄU là chưa phải chân lý, nhưng tánh Giác đó vẫn
chưa hòa tan cùng chân lý. Vì vậy GIÁC là thọ mạng tướng trong tứ
tướng. Nó vẫn là pháp chướng ngại khiến cho con người cần khổ tu hành nhiều kiếp mà không được thành Thánh quả. Vì nhận “ngã” là Niết bàn, vì cho rằng có CHỨNG có NGỘ, ví như người nhận giặc làm con, của cải trong nhà sẽ bị mất hết. Bởi vì có ái “ngã” thì cũng ái “Niết bàn”, bởi vì Niết bàn do trừ diệt gốc “ái” mà hiển hiện. Ghét “ngã” thì cũng ghét sanh tử. Ghét sanh tử cũng không gọi là giải thoát. Chúng sanh không biết nguồn gốc sanh tử chính là “ái”. Vì vậy, trong quá trình tu tập được thanh tịnh chút ít cho là “chứng đắc”. Điều đó nói lên cái chất “ngã tướng” chưa được dứt trừ. Vì thế, cho nên nếu có ai khen thì vui mừng phấn khởi, nếu bị bài báng thì giận dữ hận thù. Dựa trên tâm lý và hành động ấy mà biết rằng “ngã tướng” của người nầy còn tiềm phục trong tàng thức, du hí qua các căn không lúc nào gián đoạn.
1. Nầy, Tịnh Chư Nghiệp Chướng ! Người hành đạo mà không dứt trừ “ngã tướng”… thì không thể vào được biển Viên Giác tịch diệt Như Lai. Nếu người tỏ ngộ “ngã” vốn không thì sẽ không còn thấy người huỷ báng mạ nhục mình. Bằng ngược lại, thấy rằng ta là bậc tôn sư, là người thuyết pháp tế độ chúng sanh thì biết người đó chưa đoạn trừ “ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng”.
Tịnh Chư Nghiệp Chướng ! Những người tu hành hậu thế thuyết bệnh mà cho là thuyết pháp. Cho nên Phật gọi là những kẻ đáng thương. Dù siêng năng tu hành khó nhọc, nhưng chỉ làm tăng thêm bệnh không thể vào được biển Giác thanh tịnh Như Lai.
Người tu hành không hiểu rõ tứ tướng, lấy kiến giải và pháp tu hành của Như Lai làm của mình, cho nên tu mãi mà chẳng được gì ! Hoặc có hạng người chưa được nói được, chưa chứng nói chứng, thấy ai tu hành thắng tấn sanh tâm ganh ghét tị hiềm. Hạng người nầy cùng trong số chưa đoạn trừ “ngã ái” không thể vào nhà Viên Giác thanh tịnh
Nầy, Tịnh Chư Nghiệp Chướng ! Chúng sanh đời sau mong cầu chứng đắc mà không mong cầu tỏ ngộ chân lý, tu hành như thế chỉ tăng trưởng ngã mạn chồng chất cao thêm “ngã kiến”. Riêng hạng người siêng năng hàng phục phiền não, khởi tâm đại dũng mãnh, chưa chứng khiến chứng, chưa đắc khiến đắc, chưa đoạn khiến đoạn, tham, sân, si, mạn… đối cảnh tâm không sanh ta, người, ân, oán tất cả đều vắng lặng, Phật nói người đó lần lần sẽ được thành tựu Bồ đề Niết bàn vô thượng.
Nầy, Tịnh Chư Nghiệp Chướng ! Thiện tri thức là một trợ duyên trong đường tu tập. Tìm thiện tri thức phải tránh xa người tà kiến. Trong việc tìm cầu mà có xen tâm yêu ghét thì không thể vào được biển Viên Giác thanh tịnh.
Bấy giờ, Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Tịnh Nghiệp ! ông nên biết.
Tất cả các chúng sanh. Đều do chấp ngã ái. Vô thỉ vọng luân hồi. Vì chưa trừ tứ tướng.
Không được thành Bồ đề. Tâm thương ghét còn sanh. Niệm lọc lừa chưa dứt.
Thì còn nhiều mê muội. Khó vào đến Giác thành. Muốn quay về bản giác. Trước bỏ tham sân si. Tâm ái pháp không còn. Lần lần bèn thành tựu. Thân ta còn không có.
Thương ghét chỗ nào sanh
Thiện hữu với người nầy.
Sẽ không rơi tà kiến. Tâm nếu còn thương ghét. Quả giải thoát xa vời.
TRỰC CHỈ
2. “Tâm Viên Giác vốn thanh tịnh, duyên cớ gì lại có nhiễm ô” ?
Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng nêu câu hỏi giá trị vô cùng. Một câu hỏi đem lại lợi ích lớn lao cho chúng sanh hậu thế. Là đệ tử Phật, muốn đi con đường giải thoát giác ngộ, theo vết chân Phật phải hết sức quan tâm, để một lần nữa xác định rằng: Tâm Viên Giác của tất cả chúng sanh cũng như tâm Viên Giác của chư Phật xưa nay vốn thanh tịnh. Vấn đề quan tâm ở đây là vấn đề “nhiễm ô” và duyên cớ “nhiễm ô”.
Tư duy câu hỏi, ta thấy Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng dụng ý vạch ra hai con đường cho người tu hành hậu thế: Hoặc các vị sẽ thắng, hoặc các vị bị thua, sau khi nghe Phật giải đáp. Ngoài ra không còn con đường nào khác. Khắc phục triệt tiêu được “duyên cớ” sẽ thắng. Không khắc phục triệt tiêu được “duyên cớ” sẽ bị thua, thì dù có cần khổ tu hành mà vẫn không thành Phật đạo.
Vấn đề nhiễm ô có thiên hình vạn trạng. Có thứ nhiễm ô hạ thấp con người khiến cho rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Có thứ nhiễm ô khiến cho con người không còn phẩm chấtt, tư cách, đạo đức giá trị của con người, làm mất hết lẽ sống hạnh phúc của con người. Có thứ nhiễm ô “chướng đạo” làm cho con người dù có ý chí cao thượng muốn vượt ra sanh tử tầm thường, gắng công cần khổ tu hành mà
không thành tựu như mong muốn.
3. Tất cả nhiễm ô, có nhiều, có ít, có nặng, có nhẹ khác nhau, theo lời Phật day thì nó phát xuất từ căn bản ở một chữ “CHẤP”. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ kiếp, vì vọng tưởng mà khởi CHẤP nặng sâu về bốn thứ. Đó là NGÃ TƯỚNG, NHƠN TƯỚNG, CHÚNG SANH TƯỚNG và THỌ MỆNH TƯỚNG.
Chấp có hai cách:
Một, chấp cụ thể. Lối chấp nầy biểu hiện qua các thứ nghi lễ, các tập quán lâu đời, xưa bày nay làm, dù nghi lễ tập quán đó phản tiến hóa đối với nhơn loại và phi chân lý.
Hai, chấp trừu tượng. Đây là lối chấp phát khởi từ tâm lý, từ khái niệm: Tin tưởng ở thần thánh vu vơ, tin có đấng thiêng liêng có quyền uy ban phước cho người nầy, giáng họa cho kẻ nọ. Chấp có QUẢ BỒ ĐỀ TA SẼ CHỨNG. Có CẢNH NIẾT BÀN TA SẼ NHẬP…
Tất cả kiến chấp như vậy đều phát sanh từ vọng tưởng sai lầm mà căn nguyên là “NGÃ TƯỚNG”.
Từ cái TÔI, khởi niệm VÌ TÔI, CHO TÔI CỦA TÔI đó là biểu hiện NGÃ TƯỚNG lộ diện xuất đầu. Ý ngiệm về TÔI đã khởi thì ngay nơi đó đã vướng mắc đủ cả bốn tướng: NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH và THỌ MỆNH. Bởi vì bố tướng đó không thể tách rời ra.
Khởi niệm CHỨNG ĐẮC là vướng mắc vào NGÃ TƯỚNG rồi.
NGỘ, LIỄU, GIÁC ba tầng lý trí nhận xét phê phán và phủ định ý niệm CHỨNG ĐẮC ban đầu. Dù vậy, chúng vẫn chưa ly ngã tướng, cho nên chúng trở thành đối tượng của ngã tướng mà thôi.
Lục Tổ Huệ Năng bảo: Khởi niệm THƯƠNG là đã mắc
vào “ngã tướng”… Mống khởi ý niệm THIÊN vẫn mắc vào
“ngã tướng”.
4. Văn nhi tư, tư nhi tu, phải học đạo rồi mới hành đạo.
Không học đạo mà hành đạo, ví như lái phi cơ mà không có la bàn định hướng, có thể bay xa bay nhiều giờ mà không đến đích. Phải “ngộ” đạo rồi mới có ngày thành tựu đạo. Chúng sanh mong cầu “chứng đạo” mà không cầu tỏ “ngộ” chân lý là một sai lầm trầm trọng, cho nên tu thì nhiều mà ít có người thành Phật.
Diệt trừ bốn tướng chấp. Đối cảnh không động tâm. Phật nói người như
thế không lâu sẽ đạt đến Bồ đề Niết bàn Vô thượng.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 8)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 8)

CHƯƠNG TÁM
CHỈ QUÁN THIỀN CÓ THỂ XOAY VÒNG THAY ĐỔI THÀNH 25 CÁCH TRONG TIẾN TRÌNH TU TẬP
Bấy giờ, Biện Âm Bồ tát trước đại chúng, đảnh lễ Phật và chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn ! Thế Tôn đã dạy cho đại chúng trong hội nầy pháp tu CHỈ,
QUÁN và THIỀN NA là pháp môn rất hi hữu, nhưng với phương tiện đó, các Bồ tát đã vào cửa Viên Giác rồi, phải tu tập thế nào đối với ba pháp
ấy?
Phật dạy: Như Lai Viên Giác thanh tịnh vốn không phải là đối tượng sở tu. Dựa trên trình độ giác ngộ của chúng sanh và huyễn lực tu tập hợp với khả năng của từng người, bấy giờ trên bước đường tu có thể xoay vòng thay
đổi trước sau thành hai mươi lăm cách:
1. Nắm giữ cực tĩnh. Do cực tĩnh đoạn hết phiền não, thành tựu rốt ráo, không rời đương xứ mà nhận lấy Niết bàn. Đây gọi là pháp đơn tu XA MA THA.
2. Chuyên quán như huyễn. Linh động trong việc độ sanh, hành Bồ tát hạnh mà không mất tĩnh tuệ. Đây gọi là pháp đơn tu TAM MA BÁT ĐỀ.
3. Chuyên trừ diệt các huyễn. Thiên nặng đoạn phiền não, chứng
được thật tướng. Đây gọi là pháp đơn tu THIỀN NA.
4. Nắm giữ lấy cực tĩnh và quán chiếu vạn pháp duyên sanh như huyễn. Khởi hạnh tu như thế, gọi là trước tu CHỈ, sau tu QUÁN.
5. Nắm giữ tĩnh tuệ và đoạn trừ phiền não vượt ra sanh tử ưu bi… pháp hành nầy gọi là trước tu CHỈ, sau tu THIỀN.
6. Trước nắm giữ tĩnh tuệ, kế đến linh động độ sanh như huyễn, sau đoạn trừ phiền não thể nhập tịch diệt cảnh giới. Pháp hành như thế gọi là trước tu CHỈ, giữa tu QUÁN và sau tu THIỀN.
7. Trước giữ lấy cực tĩnh, nhờ vậy đoạn trừ hết phiền não, sau khởi Bồ tát hạnh hoá độ chúng sanh như huyễn. Hành theo pháp nầy gọi là trước tu CHỈ, giữa tu THIỀN, sau tu QUÁN.
8. Trước giữ lấy cực tĩnh, nhờ vậy tâm đoạn trừ hết phiền não và sau linh động độ sanh xây dựng thế giới. Hành theo pháp nầy gọi là trước tu CHỈ, sau THIỀN và QUÁN đồng tu.
9. Trước nắm giữ lấy cực tĩnh và linh động độ sanh như huyễn, sau đoạn trừ phiền não. Pháp môn nầy gọi là trước đồng tu CHỈ, QUÁN và sau tu THIỀN.
10. Do nắm giữ cực tĩnh, mà được tịch diệt trọn vẹn, sau khởi dụng độ sanh, kiến lập thế giới. Hành pháp môn nầy gọi là trước đồng tu CHỈ và THIỀN, sau tu QUÁN.
11. Tuỳ thuận, linh động hoá độ chúng sanh, sau thu liễm vào nắm giữ lấy cực tĩnh. Hành pháp như thế gọi là trước tu QUÁN, sau tu CHỈ.
12. Do hóa độ chúng sanh mà được tịch diệt hoàn toàn. Hành theo pháp nầy gọi là trước tu QUÁN, sau tu THIỀN.
13. Linh động làm các Phật sự, mà vẫn an trụ trong tịch tĩnh và đoạn hết phiền não ưu bi. Thành tựu như vậy gọi đó là trước tu QUÁN, giữa tu CHỈ và sau tu THIỀN.
14. Linh động là tất cả việc lợi ích chúng sanh mà vận đoạn trừ hết phiền não và an trụ trong cực tĩnh. Thành tựu theo pháp môn nầy gọi là trước tu QUÁN, giữa tu THIỀN và sau tu CHỈ.
15. Vận dụng phương tiện trong việc độ sanh như huyễn mà vẫn trụ trong cực tĩnh và tịch diệt. Thành tựu kết quả nầy gọi là trước tu QUÁN, sau đồng tu CHỈ và THIỀN.
16. Linh động khởi dụng độ sanh như huyễn và an trụ trong cực tĩnh sau hết đoạn trừ phiền não. Thành tựu pháp môn đó gọi là trước đồng tu QUÁN và CHỈ, sau tu THIỀN.
17. Linh động trong sự nghiệp độ sanh, thường trụ trong tịch diệt mà không rời cực tĩnh. Pháp môn nầy gọi là trước đồng tu QUÁN và THIỀN, sau tu CHỈ.
18. Nếu do sức tịch diệt mà được thanh tịnh đến cực tĩnh. Thành tựu nầy gọi là trước tu THIỀN, sau tu CHỈ.
19. Nếu do sức tịch diệt mà khởi công dụng hóa độ chúng sanh như huyễn. Đây gọi là trước tu THIỀN, sau tu QUÁN.
20. Nếu do sức tịch diệt mà được cực tĩnh rồi khởi dụng độ sanh.
Pháp hành như thế gọi là trước tu THIỀN, giữa tu CHỈ và sau tu QUÁN.
21. Trước do sức tịch diệt, mà khởi dụng hóa độ chúng sanh, sau quay về trụ trong cực tĩnh. Thành tựu nầy gọi là trước tu THIỀN, giữa tu QUÁN và sau tu CHỈ.
22. Nếu do sức tịch diệt mà đi sâu vào chỗ cực tĩnh, từ cực tĩnh khởi công dụng linh động trong sự nghiệp hộ thế chúng sanh. Thành tựu pháp môn nầy gọi là trước tu THIỀN, sau đồng tu CHỈ và QUÁN.
23. Nếu do sức tịch diệt mà dẫn đến cực tĩnh rồi khởi dụng lợi ích chúng sanh, theo pháp môn nầy gọi là trước đồng tu THIỀN và CHỈ, sau tu QUÁN.
24. Nếu do sức tịch diệt dẫn đến khởi công dụng linh động trong việc lợi ích chúng sanh, sau quay về cực tĩnh với trí tuệ trong sáng. Thành tựu pháp môn nầy gọi là trước đồng tu THIỀN, QUÁN và sau tu CHỈ.
25. Nếu sử dụng tuệ nhãn, nhìn vạn pháp tánh tứơng viên dung không rời Viên Giác. Thành tựu pháp môn nầy gọi là viên tu ba tự tánh, tuỳ thuận trọn vẹn CHỈ, QUÁN và THIỀN NA.
Nầy, Biện Âm! Đây là 25 cách xoay vòng thay đổi trước sau, Bồ tát đều
có thể theo đó mà tu hành, tùy căn tánh thích hợp tu theo phương thức nào cũng đều đạt đến kết quả trở về với NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thanh tịnh của chính mình.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Biện Âm ông nên biết.
Tất cả các Bồ tát. Tuệ thanh tịnh vô ngại.
Đều nương thiền định sanh.
Ây là Xa Ma Tha. Tam Ma Đề, Thiền Na. Ba pháp tu đốn, tiệm.
25 cách xoay vòng. Mười phương các Như Lai.
Ba đời người tu tập. Hết thảy đều nhơn đó. Mà được thành Bồ đề. Chỉ trừ người đốn giác. Bất tùy thuận tiệm tu. Tất cả các Bồ tát
Và Chúng sanh đời sau. Siêng tu theo pháp nầy. Nhờ Phật lực đại bi.
Niết bàn thường hiện hữu.
TRỰC CHỈ
CHỈ, QUÁN và THIỀN là ba pháp căn bản trong vô lượng pháp môn tu. theo phương cách tu thông thường, trước phải tu CHỈ, tiếp theo tu b, sau là CHỈ QUÁN ĐỒNG TU, tức là THIỀN. CHỈ có công dụng như GIỚI. QUÁN có công dụng như ĐỊNH. Và CHỈ QUÁN ĐỒNG TU có công
dụng như TUỆ. Công dụng của GIỚI ví như cái bóng đèn. Công dụng của ĐỊNH ví như ngọn đèn đứng yên. Công dụng của TUỆ ví như ánh sáng ngọn đèn tỏa sáng tròn đầy. Do bóng đèn, ngọn đèn đứng yên. Do ngọn
đèn đứng yên mới tỏa ra ánh sáng. Anh sáng tỏa ra soi sáng mọi vật, soi sáng những chỗ cần soi sáng. Vì vậy, cho nên CHỈ, QUÁN và THIỀN lẽ thường phải tu theo thứ tự. Giống như GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, tam vô lậu học, cũng tu theo thứ tự. Chủng tánh Tiểu thừa và trong giai đoạn học tu Tiểu thừa đều phải học và tu theo thứ tự như vậy.
Kinh Như Lai Viên Giác, thuộc hệ tư tưởng liễu nghĩa Đại thừa cho nên vượt ngoài khuôn khổ có tánh giáo điều. Người Đại thừa cho rằng sự thực hành thứ tự cố định đó không cần thiết, mà nó còn kềm hãm khả năng “nhảy vọt”, hạn chế những phát huy sáng kiến trong tiến trình hành đạo và chứng đạo của con người.
Ơ chương tám nầy, người đọc sẽ thấy rõ tinh thần phóng khoáng của Đại thừa tư tưởng: Rằng “Phật pháp bất định pháp”. “Nhất thiết chư pháp vô phi Phật pháp”. “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”… Pháp Phật là pháp bất định chứ không cố định. Tất cả các pháp đều là Phật pháp và
Phật pháp ở khắp thế gian. Thành Phật không rời thế gian. Cho nên, dỡ chân lên, hạ chân xuống cũng là Phật pháp, khư khư bảo thủ quả vị chứng đắc Bồ đề Niết bàn đã là sai, khư khư chấp chặt thứ tự trước sau của XA MA THA, TAM MA BÁT ĐỀ, THIỀN NA lại càng vô bổ. Vì vậy, CHỈ, QUÁN, và CHỈ QUÁN ĐỒNG TU có thể xoay vòng thay đổi trước sau thành 25 cách trong tiến trình tu tập mà kết quả đem lại ai cũng được:
TÙY THUẬN VIÊN GIÁC DIỆU TÁNH giống nhau.
Ở kinh Thủ Lăng Nghiêm thì 25 vị Thánh đệ tử trình bày lên Phật về
duyên cớ và dữ kiện chứng đắc VIÊN THÔNG:
I. DỰA TRÊN LỤC CĂN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG:
1. Ông A Na Luật Đà.
2. Ông Quán Thế Âm Bồ tát.
3. Ông Châu Lợi Bàn Đặc.
4. Ông Kiều Phạm Ba Đề.
5. Ông Tất Lăng Gìa Bà Ta.
6. Ông Tu Bồ Đề.
II. DỰA TRÊN LỤC TRẦN CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG:
1. Ông Ưu Ba Ni Sa Đà.
2. Ông Kiều Trần Như.
3. Ông Hương Nghiêm Đồng Tử.
4. Ông Dược Vương và Dược Thượng.
5. Ông Bạt Đà Bà La.
6. Ông Ma Ca Ha Diếp.
III. DỰA TRÊN LỤC THỨC CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG:
1. Ông Xá Lợi Phất.
2. Ông Phổ Hiền Bồ tát.
3. Ông Tôn Đà La Nan Đà.
4. Ông Phú Lâu Na.
5. Ông Ưu Ba Ly.
6. Ông Đại Mục Kiền Liên.
IV. DỰA TRÊN THẤT ĐẠI CHỨNG ĐẮC VIÊN THÔNG:
1. Ông Trì Địa Bồ tát.
2. Ông Nguyệt Quang Đồng Tử.
3. Ông Ô Sô Sắc Na.
4. Ông Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử.
5. Ông Hư Không Tạng Bồ tát.
6. Ông Đại Thế Chí Pháp Vương Tử.
7. Ông Di Lặc Bồ tát.
“Quả vị có thấp cao, giải thoát giống nhau không khác mấy. “Căn trần thức giới thất đại đều là dữ kiện chứng đắc VIÊN THÔNG”
(Xin đọc Thủ Lăng Nghiêm kinh Trực chỉ Đề cương tập II cùng một soạn giả từ trang 77 sẽ được hiểu rõ hơn).
Đọc kinh DUY MA CẬT SỞ THUYẾT TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG, ta thấy chư Bồ tát chứng nhập PHÁP MÔN KHÔNG HAI, minh chứng rõ thêm về Phật pháp là “bất định pháp” và “bất ly thế gian”.
Các Bồ tát tiếp cận môi trường dữ kiện khác nhau. Nhưng tất cả cũng đạt
đến một mục đích là cùng CHỨNG NHẬP PHÁP MÔN KHÔNG HAI:
1. Bồ tát Pháp Tư Tại dựa trên SANH và DIỆT.
2. Bồ tát Đức Thủ : NGÃ và NGÃ SỞ
3. Bồ tát Bất Thuấn: THỌ và BẤT THỌ.
4. Bồ tát Đức Đãnh: CẤU và TỊNH.
5. Bồ tát Thiện Tú : ĐỘNG TÂM và NIỆM TƯỞNG.
6. Bồ tát Thiện Nhãn: TƯỚNG NHẤT và TƯỚNG VÔ
7. Bồ tát Diệu Tý : TÂM BỒ TÁT và TÂM THANH VĂN.
8. Bồ tát Phất Sa: THIỆN và BẤT THIỆN.
9. Bồ tát Sư Tử : TỘI và PHƯỚC.
10. Bồ tát Sư Tử Ý : HỮU LẬU và VÔ LẬU.
11. Bồ tát Tịnh Giải : HỮU VI và VÔ VI.
12. Bồ tát Na La Diên: THẾ GIAN và XUẤT THẾ GIAN.
13. Bồ tát Thiện Ý : SANH TỬ và NIẾT BÀN.
14. Bồ tát Thiện Kiến: TẬN và BẤT TẬN.
15. Bồ tát Phổ Thủ : NGÃ và VÔ NGÃ.
16. Bồ tát Điển Thiên: MINH và VÔ MINH.
17. Bồ tát Hỷ Kiến : SẮC và KHÔNG.
18. Bồ tát Minh Tướng: TỨ ĐẠI và SỰ SAI KHÁC CỦA KHÔNG
ĐẠI.
19. Bồ tát Diệu Ý : NHÃN CĂN và SẮC TRẦN.
20. Bồ tát Vô Tận Ý: BỐ THÍ và HỒI HƯỚNG NHẤT THIẾT TRÍ.
21. Bồ tát Thâm Tuệ: KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC.
22. Bồ tát Tịnh Căn: PHẬT, PHÁP và TĂNG.
23. Bồ tát Tâm Vô Ngại: THÂN và THÂN DIỆT.
24. Bồ tát Thượng Thiện: THÂN, KHẨU, Ý .
25. Bồ tát Phước Điền: LÀM PHƯỚC LÀM TỘI, LÀM KHÔNG PHƯỚC KHÔNG TỘI.
26. Bồ tát Hoa Nghiêm: Từ BẢN NGÃ KHỞI CHẤP.
27. Bồ tát Đức Tạng: Có tướng SỞ ĐẮC.
28. Bồ tát Nguyệt Thượng: TỐI và SÁNG.
29. Bồ tát Bảo Ấn Thủ : Ham mộ NIẾT BÀN nhàm chán THẾ
GIAN.
30. Bồ tát Châu Đảnh: CHÁNH ĐẠO và TÀ ĐẠO.
31. Bồ tát Nhạo Thật: THẬT và KHÔNG THẬT.
32. Bồ tát Văn Thù : Dùng Ý phân biệt là sai. Ngôn ngữ luận bàn không đến được.
33. Cuối cùng Trưởng giả Duy Ma Cật: Lặng im và lặng im…
(Xin đọc Kinh DUY MA CẬT TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG cùng một soạn giả ).
Tóm lại, CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN ĐỒNG TU, hành giả có thể hành theo thứ tự cũng đạt đến kết quả “Tùy thuận VIÊN GIÁC DIỆU TÁNH” và xoay vòng thay đổi trước sau thành 25 cách tu cùng đem lại kết quả giống nhau.
Căn, Trần, Thức, Thất đại, dữ kiện khác nhau mà cùng chứng đắc VIÊN THÔNG giống nhau.
Nhận thức khác nhau, môi trường phản tĩnh khác nhau nhưng cùng chứng nhập PHÁP MÔN KHÔNG HAI giống nhau.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 7)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 7)

CHƯƠNG BẢY
XA MA THA, TAM MA BÁT ĐỀ VÀ THIỀN NA LÀ PHÁP HÀNH CĂN BẢN TRONG TOÀN BỘ NỀN GIÁO LÝ PHẬT
Lúc bấy giờ Bồ tát Uy Đức Tự Tại đảnh lễ dưới chân Phật và chấp tay thưa:
Đấng Đại bi Thế Tôn đã vì chúng con dạy rõ phương pháp tu hành tùy thuận Viên Giác tánh, hàng Bồ tát chúng con giác tâm bừng sáng, không phải tu tập mà được lợi ích lớn lao.
Bạch Thế Tôn ! Ví như đại đô thành, đường đi vào không phải một, tùy hướng mà đến theo sự thuận lợi và ý thích của mỗi người. Bồ tát tu hành trang nghiêm Phật độ có lẽ không phải chỉ có một pháp môn. Cúi xin Như Lai vì chúng con và chúng sanh đời sau dạy cho pháp môn tu hành tiệm tiến, chúng con cần phải làm gì và có bao nhiêu phương cách để vun bồi
trí tuệ, hầu tỏ ngộ diệu tánh Viên Giác để rong chơi trong biển đại tịch diệt của Như Lai?
Phật dạy: Nầy Uy Đức Tự Tại ! Vô thượng diệu giác phổ biến khắp mười phương, sản sanh ra chư Như Lai và tất cả pháp bình đẳng đồng thể. Ơ trong đó việc tu hành không có hướng hai, nhưng vì tùy thuận căn cơ chủng tánh mở bày phương tiện nên có vô lượng pháp môn sai khác. Tuy vậy, có thể tóm kết sự sai khác ấy trong ba phương thức tu hành căn bản:
Một, trước hết Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Lấy sự tỏ ngộ ấy làm đối tượng trụ tâm. Từ đó, vọng niệm đứng lặng, tuệ giác phát sanh, nhận biết phiền não nội tâm chỉ là thứ khách trần. Xả bỏ được tính chấp nặng nề, tâm hành giả bèn có được trạng thái khinh an tịch tĩnh. Bấy giờ tâm của chư Phật hiển hiện vào như hình tượng ảnh hiện trong gương. Thực hiện phương thức nầy thành tựu, gọi đó là pháp môn phương tiện XA MA THA (CHỈ).
Hai, Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Sử dụng giác tâm nhận thức căn trần đều là huyễn hóa. Lấy huyễn tâm trừ huyễn cảnh, lấy huyễn trí giải hoá huyễn tâm. Bừng tỉnh giác biết rằng thân tâm cảnh giới đều hư huyễn. Bấy giờ tâm hành giả được trạng thái khinh ai đại bi. Theo đà phát triển của giác tâm thanh tịnh tăng tiến tu hành trưởng dưỡng quán trí như đất nuôi mạ. Thành tựu hiệu lực như thế, gọi đó là pháp môn phương tiện TAM MA BÁT ĐỀ (QUÁN).
Ba, Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Sử dụng giác tâm trừ chấp. Xóa bỏ cái thấy biết huyễn hóa. Xoá bỏ cái nhận thức thanh tịnh của giác tâm. Không để cho ngăn ngại vì cái biết và cái không biết. Vượt qua tất cả các ngại. Thân tâm hiện hữu trên cõi đời mà Niết bàn và phiền não không trở ngại gì nhau. Ví như tiếng ngân vang của chuông từ chuông mà có, nhưng tiếng và chuông không hề ngăn ngại cho nhau. Lúc bấy giờ hành giả phát ra sự khinh an tịch diệt, tùy thuận
diệu tánh Viên Giác. Ơ trong cảnh tịch diệt, ý niệm vọng chấp: ta, người, chúng sanh và thọ mạng trở thành phù hư không còn công dụng. Thành tựu được hiệu lực như thế, gọi đó là pháp môn tu tập THIỀN NA (gọi tắt là THIỀN).
Nầy Uy Đức Tự Tại ! Ba pháp môn đó là những phương thức gần gũi và tuỳ thuận tánh Viên Giác. Mười phương Như Lai nhơn đó mà thành Phật. Mười phương Bồ tát, bao nhiêu phương tiện đồng dị cuối cùng đều y ba phương thức tu hành đó mà người thì chứng ngộ, kẻ được thể nhập Như lai Viên Giác.
Nầy Uy Đức Tự Tại ! Giả sử có ngưới siêng tu thánh đạo, giáo hoá thành tựu trăm ngàn muôn ức A La Hớn, Bích Chi Phật, không bằng người nghe pháp môn Viên Giác thanh tịnh nầy tùy thuận tu tập trong một sát na!
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Uy Đức ông nên biết. Viên Giác tâm Vô thượng. Bản chất không hai tướng. Tùy thuận mở phương tiện. Pháp môn có rất nhiều.
Như Lai tóm kết lại. Phương thức có ba điều. Tịch tĩnh XA MA THA. Như gương in ảnh tượng.
NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ.
Như đất nuôi mọng mạ. THIỀN NA sâu tịch diệt. Như tiếng ngân và chuông. Ba pháp môn màu nhiệm. Đều tùy thuận Viên Giác. Mười phương các Như Lai. Và chư Bồ tát chúng.
Nhơn đấy được thành đạo.
Ba pháp, tu viên mãn.
Được cứu cánh Niết bàn.
TRỰC CHỈ
Trong đạo Phật có rất nhiều pháp môn để tu và hành. Tùy hoàn cảnh, căn tánh, hành giả có thể chọn một pháp môn tu thích hợp với mình. Kinh sách Phật có câu: “vô lượng pháp môn tu”. Ý nghĩa của câu đó, cho biết rằng, người tu chọn pháp môn nào cũng được đều có thể đạt mục đích được, không nhất thiết bắt buộc phải theo một pháp môn giáo điều cố định nào. Đó là tinh thần phóng khoáng và tánh “tự do” của nền giáo lý Phật. Tuy vậy, trong phóng khoáng tự do vẫn có tiêu chuẩn của tự do phóng khoáng. Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền na là tiêu chuẩn chung cho “tất cả pháp môn”. XA MA THA là Phạn âm Trung Hoa dịch là CHỈ. Chỉ là
ngăn dứt vọng tâm chặn đứng loạn tưởng. Tâm con người thường ngày quay cuồng trong cái vòng lẩn quẩn: Mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn… không có phút đứng yên. Tất cả thức đó là nguyên nhân gây ra khổ não. Hành giả vận dụng nội lực cắt bỏ, chặn đứng các thứ vọng tưởng của cái vòng lẩn quẩn ấy để tâm được dừng trụ. Tâm dừng trụ một chỗ, đó là công dụng của pháp tu CHỈ và XA MA THA. Trạng thái dừng trụ yên tĩnh được chiếm nhiều thời gian trong ngày, trong cuộc sống. Đây là bước đầu hành giả được làm quen và là cơ hội để hành giả nhận diện bộ mặt
thật của “chơn tâm thường trú” của mình.
TAM MA BÁT ĐỀ Trung Hoa dịch là QUÁN. Quán là vận dụng TRÍ để nhận xét đối tượng. Ví dụ: Cái bàn. Lấy cái bàn làm vật đối tượng để nhận xét.
Ví dụ: “Cái bàn là vật VÔ THƯỜNG”. Qua nhận xét bằng TRÍ, hành giả
thấy “cái bàn vô thường” là một chân lý.
TRÍ nhận xét thuật ngữ gọi là “năng quán”. Cái bàn bị nhận xét, thuật ngữ gọi là “sở quán”. Dùng trí năng quán, quán xét biết được đối tượng sở quán (cái bàn) là một vật vô thường.
Đó là cách sử dụng Tam Ma Bát Đề trong tu tập. Dựa trên pháp quán về “cái bàn” ấy, bậc đại trí lợi căn còn suy diễn và đánh giá hiện tượng vạn hữu qua kết luận bao quát bằng sự nhận thức chân lý:
“Tất cả hiện tượng vạn hữu đều vô thường. Vì chúng là vật chất.
Phàm vật chất đều vô thường.
Ví như cái bàn…”
THIỀN NA là Phạn âm Trung Hoa dịch TĨNH LỰ, có nghĩa là tư duy trong tịch tĩnh. Chữ TĨNH có ý nghĩa như chữ CHỈ. Chữ LỰ có ý nghĩa như chữ QUÁN. Do vậy, THIỀN NA được hiểu đồng nghĩa như CHỈ QUÁN. Cho nên nói đến “TU THIỀN” là nói đến pháp môn CHỈ QUÁN song tu. Thiền là gọi tắt của từ Thiền na ấy.
Tóm lại, XA MA THA, TAM MA BÁT ĐỀ, THIỀN NA, là ba pháp môn: CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN đồng tu. Đó là ba pháp môn căn bản của tám muôn bốn ngàn pháp môn tu trong đạo Phật. Học Phật, tu Phật mà không biết sử dụng CHỈ, QUÁN hoặc CHỈ QUÁN đồng tu thì quả quyết mà nói thẳng rằng: cách tu đó, bất cứ với dạng thức nào, đều được xem là tu sai lạc, hoàn toàn không đem lại một lợi ích, một kết quả nào. Ví như người thợ làm bánh Trung Thu trong lò bánh không có bột, đường, thịt,
hạt, trứng… thì không làm sao có được bánh Trung Thu ngon lành trong thị trường Trung Thu tháng Tám !
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12