Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Duy Ma Cật Tập 1. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Duy Ma Cật Tập 1. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

DUY MA CẬT – Tập I(Chương 5)

DUY MA CẬT – Tập I(Chương 5)


CHƯƠNG THỨ NĂM
VĂN THÙ BỒ TÁT THĂM BỆNH
Bấy giờ đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: “Văn Thù! Ông hãy đi thăm bệnh
Trưởng giả Duy Ma Cật”.
Bồ Tát Văn Thù thưa: “Bạch Thế Tôn! Bậc thượng nhân kia khó đối đáp với Ông khi đàm đạo. Ông đã quán triệt sâu sắc thực tướng. Thuyết pháp rất giỏi. Biện tài vô ngại, trí tuệ siêu thường. Ông biết hết pháp thức của Bồ Tát. Thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật. Hàng phục ma quân. Thần thông du hí. Trí tuệ, phương tiện đáng làm thầy người. Dù vậy, vâng lời Phật, con sẽ đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”.
Các Bồ Tát, Thinh văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương cùng có ý niệm: Nay hai vị đại sĩ Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật đàm đạo, chắc sẽ nói những pháp mầu nhiệm sâu xa. Chúng hội cả mấy ngàn người đều muốn tháp tùng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng tùy tùng hàng hàng, lớp lớp trang nghiêm cung kính đi vào Tỳ Da Ly đại thành để thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật.
1.- Ông Duy Ma Cật biết Bồ Tát Văn Thù và đại chúng sắp đến. Ông cho dẹp hết các vật sở hữu chỉ để tịnh thất trống. Không có thị giả và độc nhất có một cái giường, bệnh nhân là Ông Duy Ma Cật nằm choán hết.
2.- Bồ Tát Văn Thù vào thất thấy sự kiện có vẻ lạ thường chưa hỏi han được gì, trưởng giả Duy Ma Cật cất tiếng:
- Quý hóa thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi đến mà không có tướng đến. Thấy mà không có tướng thấy.
Bồ Tát Văn Thù đáp: Đúng vậy, thưa cư sĩ. Nếu đến thì lại chẳng đến. Nếu đi thì lại chẳng đi. Bởi vì đến không chỗ “Từ”. Đi không chỗ “Tới”. Gọi là “Thấy” kỳ thật chẳng thấy gì.
Thôi chúng ta gác lại chuyện ấy. Xin hỏi bệnh của cư sĩ có được đở chưa! Trị liệu có bớt không? Thế Tôn ân cần thăm hỏi và lo lắng lắm đó.
Do nguyên nhân gì cư sĩ phát sanh bệnh như thế? Bệnh đã bao lâu rồi và phải làm sao cho hết?
3.- Ông Duy Ma Cật nói: Vì có si mê ái nhiễm mà bệnh của tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh cho nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh không bệnh thì bệnh của tôi lành. Bởi vì Bồ Tát vì chúng sanh cho nên vào trong sanh tử. Có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh khỏi bệnh thì Bồ Tát không còn bệnh nữa. Ví như trưởng giả có một đứa con, đứa con bệnh, cha mẹ cũng bệnh theo. Nếu bệnh của con lành thì bệnh của cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như vậy. Với chúng sanh thương như con một. Chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh. Chúng sanh lành bệnh thì bệnh của Bồ Tát cũng lành.
Ngài hỏi: Do nguyên nhân gì, bệnh của tôi phát sanh.
4.- Xin thưa: Bệnh của Bồ Tát phát sanh do tâm đại bi.
Bồ Tát Văn Thù hỏi: Vì sao thất của Ngài trống không và không có thị giả? Trưởng giả Duy Ma Cật đáp:
- Cõi nước của chư Phật cũng không như vậy.
- Do đâu mà biết không?
- Do trong không cho nên biết không.
- Dùng không để không cái gì?
- Dùng không để không phân biệt.
- Đã không thì phân biệt được gì?
- Phân biệt cũng không.
- Tìm cái không ở đâu, dựa vào đâu để nhận biết?
- Dựa vào 62 kiến chấp của ngoại đạo.
- 62 kiến chấp phải tìm ở đâu?
- Tìm trong đức giải thoát của chư Phật.
- Đức giải thoát của chư Phật tìm ở đâu?
- Tìm nơi tâm tánh của tất cả chúng sanh.
5.- Thưa Ngài Văn Thù! Ngài hỏi vì sao tôi không có thị giả. Thưa Ngài: Tất cả
ma quân và các ngoại đạo là thị giả của tôi. Bởi vì ma quân rất ưa sanh tử, mà Bồ Tát thì ở trong sanh tử không xa rời. Ngoại đạo ưa kiến chấp, Bồ Tát thì ở trong kiến chấp mà không động.
5.- Bồ Tát Văn Thù hỏi: Bệnh của cư sĩ trạng huống ra sao?
- Bệnh của tôi không hình trạng không thấy được.
- Bệnh của Ngài thuộc thân hay thuộc tâm?
- Không phải thuộc thân vì tôi đã ly cái tướng thân. Cũng không phải thuộc tâm, vì tâm như huyễn.
- Địa, thủy, hỏa, phong, trong bốn đại, Ngài bệnh đại nào?
- Bệnh của tôi không phải địa đại nhưng không rời địa đại. Không phải thủy, hỏa, phong; cũng không rời thủy, hỏa, phong. Bệnh của chúng sanh phát từ tứ đại. Chúng sanh cho nên tôi bệnh.
7.- Bồ Tát Văn Thù hỏi: Khi một Bồ Tát nhuốm bệnh, vị Bồ Tát đi thăm bệnh phải thăm hỏi thế nào, nói những gì?
Ông Duy Ma Cật đáp: “Bồ Tát đi thăm bệnh nên nói: Rằng thân vô thường, nhưng không bảo phải chán bỏ thân. Rằng thân là khổ, nhưng không khuyên nhận cái vui Niết Bàn. Rằng thân là vô ngã, mà khuyến khích tích cực giáo hóa chúng sanh. Rằng thân rỗng lặng như hư không, nhưng không nói vĩnh viễn không như sừng thỏ, lông rùa. Rằng nên ăn năn tội trước, nhưng không nên ôm ấp những lỗi đã qua. Hãy quán xét bệnh của mình mà thương xót người đang có bệnh. Phải tự thức tỉnh rằng: ta đã từng khổ đau trong nhiều kiếp, mà đừng quên nghĩ đến việc lợi lạc cho chúng sanh. Nhớ làm phước đức, luôn nghĩ tường đến đời sống trong sạch. Không nên sanh tâm buồn rầu, thường khởi tâm tinh tấn. Ta phải làm vị đại y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh.
Bồ Tát đi thăm bệnh phải thăm hỏi như thế, an ủi như thế khiến cho Bồ Tát có bệnh phát khởi hoan hỉ.
8.- Văn Thù Sư Lợi hỏi: Thưa cư sĩ! Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình như
thế nào?
Trưởng giả Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát có bệnh nên quán chiếu và tư duy rằng, bệnh của ta hôm nay là do các phiền não vọng tưởng điên đảo đời này, đời trước mà sanh ra. Nó là pháp không thật thì ai là người thọ bệnh!
Thân nầy là kết quả của sự tổ hợp, nương gá tứ đại mà thành. Tứ đại không có chủ tể thì thân nầy là vật vô ngã. Bệnh sanh khởi là do chấp ngã. Vì vậy, đối với bản ngã không nên sanh tâm luyến ái chấp mắc.
9.- Đã biết nguồn gốc của bệnh, cần phải trừ bỏ quan niệm”chấp ngã” và “chúng sanh”. Chỉ lưu lại ý tưởng về “pháp”. Do các pháp hợp lại mà thành thân. Sanh chỉ là pháp sanh; diệt chỉ là pháp diệt. Pháp thì chẳng biết gì nhau. Khi sanh nó chẳng nói ta sanh. Khi diệt chẳng nói ta diệt. Tư duy như vậy, Bồ Tát có bệnh trừ diệt quan niệm về “pháp”. Lại tư duy rằng: quan niệm về “pháp” cũng chỉ là một thứ điên đảo. Điên đảo còn thì còn khổ não, còn bệnh hoạn. Thế nên Bồ Tát khởi ý tưởng “Ly”.
- Ly là thế nào?
- Ly ngã và ngã sở.
- Ly ngã, ngã sở là sao?
- Ly cả hai pháp.
- Ly cả hai pháp là thế nào?
- Ly nội tâm, ly ngoại cảnh, thể hiện tánh bình đẳng.
- Bình đẳng như thế nào?
- Bình đẳng về ý niệm ngã và bình đẳng về ý niệm Niết bàn. Nhận thức rõ rằng: Ngã vốn không, Niết-bàn cũng chẳng có. Ngã và Niết bàn đều không.
- Do gì biết đó là không?
- Tư duy rằng chúng chỉ dựa trên văn tự mà giả lập. Chúng không có tính quyết định. Hiểu được tính bình đẳng đó thì không còn bệnh nào khác., chỉ có bệnh”không”. Cuối cùng “không” cũng không. Bấy giờ Bồ Tát có bệnh xử dụng vô sở thọ mà thọ cái thọ. Khi nào Phật pháp chưa đầy đủ, cũng không diệt thọ để nhận lấy quả sở chứng. Giả sử thân có khổ, nhớ nghĩ chúng sanh trong ác thú mà khởi lòng đại bi: rằng ta đã điều phục cũng sẽ điều phục cho chúng sanh. Vì vậy chỉ trừ bỏ bệnh chấp mà không trừ bỏ “pháp”. Vì muốn trị dứt gốc bệnh của chúng sanh mà giáo hóa họ.
10.- Thế nào là gốc bệnh?
- Gốc bệnh có vì có tâm phan duyên. Chừng nào còn có tâm phan duyên thì gốc bệnh còn.
- Đối tượng phan duyên là gì?
- Đối tượng phan duyên là tam giới.
- Làm sao đoạn được phan duyên?
11.- Muốn đoạn phan duyên phải vô sở đắc. Vô sở đắc thì hết phan duyên.
- Sao gọi là vô sở đắc?
- Vô sở đắc có nghĩa là vĩnh ly hai thứ kiến chấp.
- Hai thứ kiến chấp là gì?
- Là nội kiến và ngoại kiến. Nội kiến là chấp bản ngã của tự thân.Ngoại kiến là chấp hiện tượng vạn pháp bên ngoài.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đây là những điều Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình. Nhằm dứt trừ các khổ, lão, bệnh, tử. Đó là Bồ Đề của Bồ Tát. Nếu không như thế thì việc tu sửa của mình sẽ không có được trí tuệ sắc bén. Ví như có chiến thắng đối thủ ngoan cường thì mới gọi là chàng dũng sĩ! Được vậy, Bồ Tát gọi đó là người chiến sĩ tiêu trừ giặc cướp: lão, bệnh, tử.
12.- Bồ Tát có bệnh còn quán chiếu tư duy rằng: Bệnh của ta đây không thật có. Bệnh của chúng sanh cũng không thật có. Quán chiếu tư duy như thế đối với chúng sanh. Nếu sanh khởi lòng đại bi ái kiến thì cần phải xả ly. Bởi vì Bồ Tát nhằm đoạn trừ khách trần phiền não mà phát khởi lòng đại bi. Nếu lòng đại bi còn có tâm ái kiến thì ở trong sanh tử sẽ có lúc mỏi mệt mà thoái thoát đạo tâm. Xa lìa đại bi ái kiến thì hóa độ chúng sanh đời nầy, kiếp khác cùng không có chán nản mỏi mệt. Người không bị ràng buộc mới dạy cách mở cho người ràng buộc. Đang bị ràng buộc mà dạy cách mở ràng buộc cho người khác là chuyện không thể có. Mình không bị ràng buộc, mở ràng buộc giúp cho người khác là việc dễ dàng! Thế nên Bồ Tát không nên làm những điều gì khiến cho mình bị ràng buộc.
13.- Thế nào là bị ràng buộc. Thế nào là được mở ràng buộc?
- Đam mê thiền vị là Bồ Tát bị ràng buộc. Xử dụng các phương tiện trong sinh hoạt bình thường là Bồ Tát không bị ràng buộc.
Lại nữa Bồ Tát không phương tiện, không trí tuệ là bị ràng buộc. Có phương tiện có trí tuệ là Bồ Tát được mở ràng buộc.
- Thế nào là không phương tiện, không trí tuệ, Bồ Tát bị ràng buộc?
- Nghĩa là Bồ Tát dùng tâm ái kiến mà trang nghiêm cõi Phật hóa độ chúng sanh. Dùng “không”, “vô tướng”, “vô tác” mà điều phục tâm mình. Đó là Bồ Tát không phương tiện, không trí tuệ, Bồ Tát bị ràng buộc.
- Có trí tuệ, có phương tiện, Bồ Tát được mở ràng buộc là thế nào?
- Nghĩa là Bồ Tát lìa xa các tham dục, sân nhuế tà kiến, các phiền não mà trồng cội phước, hồi hướng thẳng vô thượng Bồ Đề. Đó là có trí tuệ, có phương tiện, Bồ Tát đưọc mở ràng buộc.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh phải nên quán các pháp như thế.
Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó là trí tuệ. Thân dù có bệnh mà ở trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không chán nản, mỏi mệt. Đó là có phương tiện.
Lại quán về thân. Thân không rời bệnh, bệnh không rời thân. Thân ấy, bệnh ấy không phải mới, không phải cũ gọi đó là trí tuệ. Thân dù có bệnh mà không diệt thân, gọi đó là phương tiện.
14.- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm mình. Không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm bất điều phục. Vì trụ tâm bất điều phục là pháp của phàm phu. Trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Thế nên, Bồ Tát không trụ ở tâm điều phục và tâm bất điều phục. Ly đuợc cả hai pháp, thì Bồ Tát làm việc ở sanh tử mà không bị nhiễm ô. Trụ ở Niết bàn mà không diệt độ hẳn. Thế nên Bồ Tát hạnh không phải là hạnh phàm phu cũng không phải là hạnh hiền thánh. Bồ Tát hạnh không phải hạnh cấu, cũng không phải hạnh tịnh.
15.- Bồ tát hạnh dù vượt quá hạnh ma màhiện hàng phục các ma. Bồ tát hạnh cầu nhất thiết trí mà không cầu phi thời. Bồ tát hạnh dù quán các pháp không sanh mà không vào chánh vị. Bồ tát hạnh dù quán thập nhị nhân duyên mà tham nhập các tà kiến. Bồ tát hạnh dù chinh phục tất cả chúng sanh mà không luyến ái. Bồ tát hạnh dù ưa vui với hạnh viễn ly mà không có ý tưởng diệt hết tướng thân tâm. Bồ tát hạnh dù sanh hoạt trong tam giới mà không tổn hoại pháp tánh. Bồ tát hạnh dù không chấp ở việc làm phúc đức mà vẫn trồng các cội phước đức. Bồ tát hạnh dù thấy tất cả vô tướng mà vẫn cứu độ chúng sanh. Bồ tát hạnh dù biết vạn pháp vô tác mà vẫn hiện thọ thân. Bồ tát hạnh dù việc làm vô khởi mà khởi các hạnh lành. Bồ tát hạnh dù thực hành lục ba la mật mà phổ biến khắp đủ tâm và tâm sở pháp của chúng sanh. Bồ tát hạnh dù thực hành đủ lục thông mà không hết hoặc lậu. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ vô lượng tâm mà không tham đắm sanh cõi Phạm thế. Bồ tát hạnh dù thực hành thiền định, giải thoát tam muội mà không đam nhiễm vị thiền. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ niệm xứ mà không vĩnh viễn xa lìa thân, thọ, tâm, pháp. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ chánh cần mà không bỏ rời sự tinh tấn của thân tâm. Bồ tát hạnh dù hành tứ như ý túc mà được tự tại thần thông. Bồ tát hạnh dù thực hành ngũ căn mà phân biệt các căn lợi độn của chúng sanh. Bồ tát hạnh dù thực hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực. Bồ tát hạnh dù thực hành thất giác chi mà phân biệt trí tuệ Phật. Bồ tát hạnh dù thực hành bát chánh đạo mà ưa thực hành vô lượng Phật đạo. Bồ tát hạnh dù thực hành pháp chỉ quán trợ đạo mà không bị rơi vào tịch diệt hoàn toàn. Bồ tát hạnh dù biết rõ các pháp không sanh, không diệt mà vẫn dùng tướng hảo trang nghiêm thân. Bồ tát hạnh dù hiện oai nghi Thanh văn, Duyên giác mà không rời pháp Phật. Bồ tát hạnh dù tùy thuận thật tướng mà vẫn tùy thuận chỗ hiện thân cần thiết. Bồ tát hạnh dù quán đất nước chư Phật vắng lặng như hư không mà hiện cảnh trí thanh tịnh của cõi Phật. Bồ tát hạnh dù được thành Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn mà không rời bỏ đạo Bồ tát.
Sau khi Trưởng gia Duy Ma Cật nói thời pháp ấy có tám ngàn Thiên chúng tùy tùng phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.
TRỰC CHỈ
1.- Tịnh thất trống, tiêu biểu “Nhất chân pháp giới, vạn pháp giai không” mhằm xiển dương chân lý:
“Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc là không, không là sắc”.
Một giường, một thân. Một thân nằm trên một giường, tiêu biểu pháp thân và huyễn thân bất ly. Pháp thân không rời huyễn thân. Huyễn thân ở trong pháp thân.
“Huyễn hóa không thân tức pháp thân”.
2.- Nếu đứng bên mé sông, trên bờ biển, người ta sẽ thấy chiếc thuyền đi từ địa
điểm này đến địa điểm nọ: Đi từ Thái Bình Dương sang đến Đại Tây Dương chẳng hạn…
Qua sự thấy biết đó, người ta cho rằng chiếc thuyền có Đi có Đến.
Giả sử người ta được nhìn thấy qua cái nhìn thấy cao rộng của phi hành gia vũ trụ thì sự Đi và Đến của chiếc thuyền kia chẳng có nghĩa lý gì cả, vì nó chưa có phút giây tạm rời khỏi mặt địa cầu.
Sự di chuyển “Đến”, “Đi” của con người trong pháp giới “nhất chân” cũng chẳng có nghĩa gì.
Nhìn bằng tuệ nhãn, Bồ tát thấy rõ: “Đến mà không có tướng đến”
“Đi không chỗ khởi hành”
Bởi trong quá trình Đi, Đến không có giây phút tạm rời pháp giới nhất chân.
“Tánh thấy” và “đối tượng thấy”. Phải học cách nhìn “Pháp nhĩ như thị”, người đệ
tử Phật mới có cơ may nhận thức được chân lý.
Pháp nhĩ như thị nghĩa là thấy mà không có tướng thấy. Thấy cũng như không thấy, không thấy cũng như thấy. Có cũng như không có. Không có cũng như có. Có là không. Không là có. Vì biết rằng: thật tướng của các Pháp là vô tướng.
3.- Sanh, lão, bệnh, tử đối với Bồ tát không có gì đáng nói. Vì đó là quy luật phổ
biến. Nó là chân lý của cuộc đời. Có gì phải bận tâm Bồ tát.
Bồ tát Duy Ma Cật bệnh, chỉ là một cái cớ được tạo ra nhằm triển khai thật tướng, chỉ bày pháp tánh, giới thiệu pháp thân, xiển dương đệ nhất nghĩa của Đại thừa.
Vì gió độc si ái làm cho Bồ tát sanh bệnh. Vì chúng sanh bệnh mà Bồ tát bệnh. Chừng nào chúng sanh hết bệnh, thì bệnh Bồ tát lành.
Bồ tát thương chúng sanh như cha mẹ thương con. Con bệnh cha mẹ bệnh theo. Con lành bệnh, bệnh cha mẹ cũng lành.
Bệnh của Bồ tát phát sanh do tâm đại bi.
4.- Cõi nước của chư Phật cũng trống không, thất của Bồ tát Duy Ma Cật cũng trống không, nhằm khai thị đạo lý “Hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
Tuy nhiên người đạt đạo phải tìm thấy “Cái không ngay trong cái có”.
Đó là cái nhìn cũa tuệ nhãn: Đương thể tức không của Bồ tát.
5.- Ma quân ưa sanh tử. Bồ tát ở trong sanh tử không rời. Ngoại đạo đam mê kiến chấp, Bồ tát ở trong kiến chấp mà không động.
rồi.
Do vậy Bồ tát không cô đơn. Ma quân và ngoại đạo là người hầu cận, là “thị giả”
6.- Bệnh của Bồ tát không thuộc thân, vì Bồ tát đã ly “thân tướng”. Cũng không phải thuộc tâm, vì Bồ tát biết rõ “tâm như huyễn”.
7.- Khi thăm bệnh, Bồ tát cần nhắc nhở bệnh nhân về sự vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh của thân, nhưng không khuyến khích chán nản thân, bi quan, yếm thế và tiêu cực vì thân.
Hãy quán xét bệnh của mình, mà nghĩ đến bệnh khổ của chúng sanh. Hãy phát chí nguyện làm vị đại y vương để trị bệnh cho tất cả.
8.- Bồ tát có bệnh nên tự quán chiếu rằng: Bệnh của ta do phiền não vọng tưởng
điên đảo, do chấp ngã pháp mà sanh. Có điên đảo thì có bệnh khổ.
9.- Muốn trừ diệt bệnh khổ, Bồ tát khởi ý tưởng “Ly”. Ly ngã, ngã sở. Ly nội tâm, ly ngoại cảnh. Khởi ý niệm bình đẳng rằng: Ngã vốn không và Niết bàn cũng chẳng có.
10.- Gốc bệnh của chúng sanh là tâm phan duyên. Chừng nào chúng sanh còn tâm phan duyên thì gốc bệnh còn.
11.- Muốn đoạn tâm phan duyên phải “Vô sở đắc”.Muốn được vô sở đắc phải viễn ly chấp ngã và chấp pháp.
12.- Bồ tát cứu độ chúng sanh không được có lẫn tâm ái kiến. Nếu lòng đại bi mà có lẫn ái kiến thì việc độ sanh sẽ có lúc mỏi mệt nản lòng.
13.- Trong việc độ sanh, thực hiện đúng chánh pháp, Bồ tát tự tại trong nhiệm vụ lợi tha. Thực hiện sai chánh pháp, Bồ tát có thể bị ràng buộc, mắc mứu, chướng ngại sự giải thoát giác ngộ của mình.
Nếu Bồ tát còn mống niệm đam mê, trụ chấp dù là đam mê trụ chấp thiền định lục ba la mật, Bồ đề, Niết bàn, Bồ tát bị ràng buộc rồi.
Bồ tát phải thường xuyên xử dụng trí tuệ, luôn luôn vận dụng phương tiện trong việc độ sanh là Bồ tát được cởi mở ràng buộc.
14.- Bồ tát có bệnh điều phục tâm mình bằng cách: không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm bất điều phục. Bởi vì trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Trụ ở tâm bất điều phục là pháp của phàm phu.
15.- Bồ tát phải thể hiện Bồ tát hạnh. Không thể hiện Bồ tát hạnh thực nghĩa Bồ tát không còn.
Bồ tát hạnh không phải là hạnh phàm phu, cũng không phải là hạnh hiền thánh. Bồ tát hạnh không phải hạnh cấu nhiễm cũng không phải hạnh thanh tịnh.
Bồ tát hạnh: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”.
Trang: 1 2 3 4
DUY MA CẬT – Tập I(Chương 4)

DUY MA CẬT – Tập I(Chương 4)


CHƯƠNG THỨ TƯ
BỒ TÁT
I.- VẤN ĐỀ THỌ KÝ
Bấy giờ đức Phật gọi Bồ Tát Di Lặc bảo: “Di Lặc! Ông hãy đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật!”
Bồ Tát Di Lặc thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả! Bởi vì trước đây, trong một hôm nọ con vì Đâu Suất Thiên Vương và một số chư Thiên quyến thuộc, dạy cho họ về hạnh bất thối chuyển đối với quả vô thượng Bồ Đề. Bấy giờ Ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng:
- Thưa Ngài Di Lặc! Thế Tôn thọ ký cho Ngài một đời sẽ thành vô thượng Bồ Đề; vậy Ngài định dùng đời nào, khi Ngài nhận sự thọ ký ấy? Đời quá khứ? Đøời hiện tại? Hay đời vị lai ư? Nếu đời quá khứ thì đã qua rồi! Đời vị lai thì chưa đến! Đời hiện tại?
Có hiện tại nào lại không vận động biến chuyển? Có hiện tại nào tồn tại cố định? Đức Phật đã thường dạy: “Nầy các thầy Tỳ Kheo! Ngay bây giờ, các thầy vừa có sanh, vừa có lão, vừa có diệt vong!” Hay là Ngài định xử dụng cái vô sanh mà cho rằng được thọ ký ư? Nói đến vô sanh tức là chánh vị. Đã là chánh vị thì không có vấn đề thọ ký và cũng không có cái gọi là “được” quả vô thượng Bồ Đề. Thế thì làm sao Ngài Di Lặc lại “được thọ ký” một đời? Hay là Ngài dựa theo đời của chân như sanh mà được thọ ký? Hay là
đời của chân như diệt mà được thọ ký? Nếu dựa theo đời của chân như sanh không được. Vì chân như không có sanh. Nếu dựa theo đời của chân như diệt cũng không được. Vì chân như không có diệt. Ngài nên biết tất cả chúng sanh đều NHƯ. Tất cả pháp đều
NHƯ. Các thánh hiền cũng NHƯ. Chính Di Lặc ngài cũng NHƯ. Nếu Ngài được thọ ký thì tất cả chúng sanh lẽ ra cũng được thọ ký. Vì luận về nghĩa NHƯ thì không còn có cái hai. Không có cái nào khác với cái nào. Nếu Ngài được vô thượng Bồ Đề lẽ ra tất cả chúng sanh cũng được quả vô thượng Bồ Đề! Vì tất cả chúng sanh là tướng của Bồ Đề. Nếu Ngài được diệt độ thì tất cả chúng sanh cũng phải được diệt độ. Vì chư Phật biết tất cả chúng sanh là tướng của Niết Bàn vốn đã vĩnh cửu tịch diệt. Cho nên chẳng còn gì để diệt nữa. Vì vậy, Ngài không nên lấy pháp bất thối chuyển mà dạy cho các Thiên tử.
Thực ra không có người phát tâm vô thượng Bồ Đề và cũng không có người thối thất với quả vô thượng Bồ Đề. Ngài nên hướng dẫn cho các Thiên tử này xã bỏ quan niệm chấp mắc về quả Bồ Đề. Vì sao? Vì Bồ Đề không phải được từ nơi thân, cũng không phải được từ nơi tâm. Tịch diệt là Bồ Đề, vì diệt hết các tướng chấp. Bất quán là Bồ Đề, vì xa lìa hết các trần duyên. Bất hành là Bồ Đề, vì không lưu một ức niệm, một hy vọng nào. Đoạn là Bồ Đề, vì xa lìa tất cả kiến chấp. Ly là Bồ Đề, vì lìa xa tất cả vọng tưởng.
Chướng là Bồ Đề, vì chống lại tất cả mong muốn. Bất nhập là Bồ Đề, vì không dính dáng vào chuyện tục lụy. Thuận là Bồ Đề, vì thuận theo chân như. Trụ là Bồ Đề, vì hằng trụ ở pháp tánh. Chí là Bồ Đề, vì đạt đến chỗ thật tế của chân lý. Bất nhị là Bồ Đề, vì xa rời ý
căn và pháp trần. Đẳng là Bồ Đề, vì bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ Đề, vì không sanh, không trụ, không dị, không diệt. Tri là Bồ Đề, vì rõ biết hết tâm hành của chúng sanh. Bất hội là Bồ Đề, vì các nhập không nhóm được. Bất hiệp là Bồ Đề, vì dẹp tan hết các phiền não. Giả danh là Bồ Đề, vì biết rõ tánh của ngôn ngữ văn tự vốn không. Như
hóa là Bồ Đề, vì không còn dính ở thủ, xã hai bên. Vô loạn là Bồ Đề, vì tự tâm thường trụ tướng tịch tĩnh. Thiện tịch là Bồ Đề, vì thể tự tánh lúc nào cũng vắng lặng. Bất thủ là Bồ Đề, vì xa lìa hết các phan duyên. Bất dị là Bồ Đề, vì nhìn các pháp bằng cái thấy bình đẳng. Vô tỉ là Bồ Đề, vì các pháp không có tướng đối đải để so sánh. Vi diệu là Bồ Đề, vì các pháp khó biết mà biết rõ tất cả.
-Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Di Lặc thưa. Khi Trưởng giả Duy Ma Cật thuyết thời pháp ấy, hai trăm Thiên tử được vô sanh pháp nhẫn. Vì vậy, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh”.
TRỰC CHỈ
Kinh Phật thường gọi đức Di Lặc là Bồ Tát nhất sanh bổ xứ. Được Phật thọ ký một đời sẽ thành vô thượng Bồ Đề.
Tự tin mình một đời sẽ thành tựu quả vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát Di Lặc chẳng có lỗi gì. Đem hạnh nguyện bất thối chuyển dạy cho chư Thiên Đâu Suất cung, khiến cho “bất thối chuyển” quả vô thượng Bồ Đề, Bồ Tát Di Lặc cũng chẳng có lỗi gì. Vì lợi tha là Bồ Tát hạnh.
Điểm yếu của Bồ Tát Di Lặc ở chỗ:
1.- Tin vào ngữ ngôn Thọ Ký.
2.- Tin ở văn tự Một Đời.
3.- Tin ở quả chứng Bồ Đề.
Kinh Hoa Nghiêm, “Nhật xuất tiên chiếu” Phật dạy:
“Tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Vì tất cả chúng sanh đều có phước đức trí tuệ
Phật”.
Kinh Pháp Hoa, “Nhật một hoàn chiếu” Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đã thành Phật”.
Xem thế, không phải chỉ có Bồ Tát Di Lặc được “Thọ ký” mà tất cả chúng sanh
cũng đã được Phật thọ ký từ lâu rồi.
Đời, nói cách khác là Thời gian. Thời gian thì không có “Mốc”. Chỉ dựa trên hiện tượng vật chất, người ta đánh giá “Mốc thời gian”.
Thời gian thọ mệnh của rùa… Thời gian thọ mệnh của người…
Thời gian thọ mệnh của “Cẩu”, của “Kê”… Thời gian thọ trưởng của cây tùng, cây bách…
Thời gian thọ trưởng cam, quít, lựu, lê…
Xóa bỏ vật chất ra sẽ không có Đời. Dựa trên vật chất để đánh giá Đời, thì Đời chẳng có gì để làm tiêu chuẩn.
Tin ở ngữ ngôn văn tự, Bồ Tát Di Lặc bị “Hố”, đối với chân lý đệ nhất nghĩa. Xưa kia đùức Thích Ca cũng có lần được Phật Nhiên Đăng thọ ký thành Phật sau
này. Đức Thích Ca hồi ấy có nghe; mà không để lòng nghĩ ngợi đặt hy vọng ở lời Thọ Ký của Phật Nhiên Đăng. Nhờ vậy, đức Thích Ca thành Phật trước.
Người thực khách thông minh, không tin ở tấm biển “MAI ĂN KHỎI TRẢ
TIỀN” của tiệm ăn quảng cáo có nhiều đặc sản ấy.
Trông chờ hy vọng “quả vô thương Bồ Đề”. Coi chừng! Sai một ly, đi một dặm. “Nhật hành lãnh thượng mạc tầm sơn”!
Cần phải khai quật Bồ Đề tâm, phát huy Bồ Đề tự tánh. Đó mới là con đường tiến
đến vô thượng Bồ Đề. Đi theo con đường đó thì:
* Tịch diệt là Bồ đề.
* Bất quán là Bồ đề.
* Bất hành là Bồ đề.
* Đoạn là Bồ đề.
* Ly là Bồ đề.
* Chướng là Bồ đề
* Bất nhập là Bồ đề.
* Thuận là Bồ đề.
* Trụ là Bồ đề.
* Bất nhị là Bồ đề.
* Đẳng là Bồ đề.
* Vô vi là Bồ đề.
* Tri là Bồ đề.
* Bất hội là Bồ đề.
* Bất hiệp là Bồ đề.
* Vô xứ là Bồ đề.
* Giả danh là Bồ đề.
* Như huyễn là Bồ đề.
* Vô loạn là Bồ đề.
* Thiện tịch là Bồ đề.
* Vô thủ là Bồ đề.
* Vô dị là Bồ đề.
* Vô tỷ là Bồ đề
* Vi diệu là Bồ đề.
Bồ Đề đạo là đạo tỉnh thức. Bồ Đề giả là người tỉnh thức.
Luôn luôn tỉnh thức sống đúng, sống hợp chân lý là sống trong Bồ Đề đạo, không
cần phải lo lắng vấn đề “thối chuyển”. Ôm tâm trạng “Sợ” thối chuyển là đã sụp đổ một góc lâu đài Niết Bàn rồi.
Cố học và giữ gìn cái “Hạnh bất thối chuyển”, càng làm cho tòa Niết Bàn mờ ảo xa xăm hơn. Trước mắt, Bồ Đề chưa thấy mà Niết Bàn của các Thiên vương cứ sụp đổ và mất hút dần. Chưa thâm ngộ “thật tướng” học pháp “bất liễu nghĩa”, thực hành pháp “bất liễu nghĩa” thường bị “kẹt”. Nhìn Bồ Đề Niết Bàn, còn bị bao phủ những lớp sương mù “chấp mắc”.
I I. VẤN ĐỀ ĐẠO TRÀNG
Đức Phật gọi Quang Nghiêm Đồng Tử bảo: “Quang Nghiêm! Ông hãy đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật”.
Quang Nghiêm Đồng Tử thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật! Bởi vì, trước đây vào một hôm nọ, con từ thành Tỳ Da Ly đi ra, Ngài Duy Ma Cật thì từ ngoại thành đi vào. Con lễ phép chào và hỏi:
- Thưa cư sĩ! Ngài từ đâu đến đây?
Ông Duy Ma Cật đáp: Tôi từ đạo tràng đến.
Con lấy làm lạ hỏi: Ngài nói đạo tràng, vậy đạo tràng nào? Ở đâu? Ông Duy Ma Cật đáp:
Trực tâm là đạo tràng: Tâm hạnh thành thật, thẳng thắn không hư dối quanh co. Phát hạnh là đạo tràng: Siêng năng tinh tấn làm tất cả việc.
Thâm tâm là đạo tràng: Luôn luôn vun bồi công đức và làm tăng trưởng công đức.
Bồ đề tâm là đạo tràng: Vận dụng trí tuệ trong sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết…để tránh mọi si mê lầm lạc.
Bố thí là đạo tràng: Thí tài, thí pháp và thí cả vô úy cho chúng sanh mà không hy vọng đáp đền ơn nghĩa.
Trì giới là đạo tràng: Giữ giới thanh tịnh đúng như chí nguyện mong ước lúc phát khởi sơ tâm.
Nhẫn nhục là đạo tràng: Tâm được điều thuận, nhu nhuyễn đối với tất cả chúng sanh không còn bị chướng ngại.
Tinh tấn là đạo tràng: Không lúc nào giải đãi trong việc học chánh pháp, hành chánh pháp và sống trong chánh pháp.
Thiền định là đạo tràng: Tâm nhu hòa an ổn, không dong rủi ở lục dục thất tình.
Trí tuệ là đạo tràng: Thấy rõ bản chất vô thường, vô ngã và bất tịnh của các pháp
đúng như thật.
Từ là đạo tràng: Đối với tất cả chúng sanh đều thương như con một. Bi là đạo tràng: Vận dụng mọi phương tiện cứu khổ cho chúng sanh. Hỉ là đạo tràng: Lúc nào cũng vui mừng khi thấy người khác được vui. Xã là đạo tràng: Đoạn hết mọi ý niệm ghét thương trong lòng.
Thần thông là đạo tràng: Thành tựu đầy đủ lục thông.
xã.
Giải thoát là đạo tràng: Luôn luôn vận dụïng pháp bội xã và sống trong pháp bội
Phương tiện là đạo tràng: Giáo hóa chúng sanh bằng nhiều hình thức, tùy căn cơ,
đối tượng.
Tứ nhiếp là đạo tràng: Thuyết pháp độ chúng sanh bằng nhiều cách và tùy cơ
duyên mà hóa độ.
Đa văn là đạo tràng: Nghe chánh pháp rồi thật hành đúng chánh pháp. Phục tâm là đạo tràng: Vận dụng chánh quán mà quán các pháp.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo làđạo tràng: Rời bỏ hết các pháp hữu vi.
Tứ đế là đạo tràng: Thấy đúng như thật, biết đúng như thật, nói đúng như thật các pháp thế gian.
Duyên khởi là đạo tràng: Biết rõ từ vô minh cho đến lão tử đều không có cái hết.
định.
Các phiền não là đạo tràng: Vì nhận biết sự tác hại của phiền não một cách quyết
Chúng sanh là đạo tràng: Vì nhận biết sự hòa hợp, sự nương gá tạm bợ, biết rõ tánh chất vô thường vô ngã của chúng.
Tất cả pháp là đạo tràng: Vì biết rõ tất cả pháp vốn không.
Hàng ma là đạo tràng: Vì biết trước các thế lực bất hảo của ma.
Tam gới là đạo tràng: Dù nhận có tam giới mà không bị ràng buộc trong tam giới. Sư tử hống là đạo tràng: Vì sự thuyết pháp độ sanh đạt đến vô sở úy.
Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp là đạo tràng: Vì thân, khẩu, ý đã thuần thục đạt đến chỗ tột cùng của thanh tịnh, không còn có sự sai lầm.
Tam minh là đạo tràng: Nhận thức các pháp thấu suốt tận gốc, tột nguồn. Nhất niệm tri nhất thiết pháp là đạo tràng: Vì thành tựu nhất thiết chủng trí.
Thế đấy! Quang Nghiêm đồng tử! Bồ Tát nếu ứng dụng trí tuệ ba la mật giáo hóa chúng sanh thì mọi hành động giở chân lên, hạ chân xuống đều từ đạo tràng đến và lúc nào cũng ở trong Phật pháp vậy.
Bạch Thế Tôn! Quang Nghiêm thưa. Trưởng giả Duy Ma Cật nói thời pháp ấy rồi có năm trăm trời, người đều phát tâm vô thượng Bồ đề. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh”.
TRỰC CHỈ
ĐẠO TRÀNG, thông thường người ta có ba cách nghĩ: Một, chỗ đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề
Hai, chỗ tụ hội của một tập thể đông đảo.
Ba, chỗ làm chay có xô đàn thí rế, cầu siêu, bạc tiền…
Trong nhận thức của Quang Nghiêm đồng tử cũng chưa vượt ra ba ý nghĩa đó. Bồ Tát Duy Ma Cật trong dáng vẻ ung dung tự tại đi vào nội thành Tỳ Da Ly,
khiến cho Quang Nghiêm đồng tử rất ngạc nhiên khi nghe Ông Duy Ma Cật trả lời:
“Tôi từ đạo tràng đến”.
Một câu trả lời bình thường như bao nhiêu ngữ ngôn bình thường. Vậy mà sức công phá hết sức lớn lao. Nó xé toạt màn vô minh vĩnh viễn cho thế hệ tương lai, vén mây ngút chỉ trời xanh cho những người thức giả lúc bất ngờ rằng:
Đạo tràng không phải là chỗ Phật ngồi. Cũng không phải là chỗ tụ hội của một nhóm người đông đảo, cũng không phải đám làm chay có xô đàn thí rế, tụng tán chóc choeng…
- Trực tâm là đạo tràng.
- Thâm tâm là đạo tràng.
- Bồ Đề tâm là đạo tràng.
- Phát hạnh là đạo tràng.
- Bố thí là đạo tràng.
- Trì giới là đạo tràng.
- Nhẫn nhục là đạo tràng.
- Tinh tấn là đạo tràng.
- Thiền định là đạo tràng.
- Trí tuệ là đạo tràng.
- Từ là đạo tràng.
- Bi là đạo tràng.
- Hỉ là đạo tràng.
- Xã là đạo tràng.
- Đoạn là đạo tràng.
- Thần thông là đạo tràng.
- Giải thoát là đạo tràng.
- Phương tiện là đạo tràng.
- Tứ nhiếp là đạo tràng.
- Đa văn là đạo tràng.
- Phục tâm là đạo tràng.
- Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo tràng.
- Tứ đế là đạo tràng.
- Thập nhị nhân duyên là đạo tràng.
- Các phiền não là đạo tràng.
- Chúng sanh là đạo tràng.
- Tất cả pháp là đạo tràng.
- Hàng ma là đạo tràng.
- Tam giới là đạo tràng.
- Sư tử hống là đạo tràng.
- Thập lực là đạo tràng.
- Tứ vô sở úy là đạo tràng.
- Thập bát bất cộng pháp là đạo tràng.
- Tam minh là đạo tràng.
- Nhất niệm tri nhứt thiết pháp là đạo tràng.
Bồ Tát sống trong các Ba la mật môn, giáo hóa chúng sanh khiến cho họ phát tâm thì nhất cử, nhất động, giở chân lên, để chân xuống đều từ đạo tràng đếùn và ở chỗ nào, cũng là ở trong Phật pháp.
III. PHÁP VUI VÔ TẬN
Đức Phật gọi Bồ Tát Trì Thế bảo: “Trì Thế! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả
Duy Ma Cật”.
Bồ Tát Trì Thế thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả.
Bạch Thế Tôn! Con còn nhớ một hôm nọ con đang ở nơi tịnh thất, bấy giờ có ma Ba tuần đem theo cả một vạn hai ngàn Thiên nữ, giả dạng y như Trời Đế Thích. Họ đánh trống thổi kèn, đàn nhạc, ca hát, đi đến chỗ con. Một số đông dập đầu lễ lạy dưới chân con; rồi chấp tay cung kính đứng trước con, hàng ngũ trang nghiêm trật tự. Con nghĩ họ là Trời Đế Thích. Con bèn thuyết pháp cho họ rằng:
Quí hóa thay! Kiều Thi Ca! Các vị có phước báu, nhưng không nên buông lung, trong khi hưởng phước. Phải quán ngũ dục là vô thường, để trồng sâu cội phúc. Dựa trên tự thân, trên của cải vô thường mà tu tập quán chiếu, ngõ hầu được cái thân bền chắc…!
Bấy giờ trong số người đó nói với con rằng: Thưa Chánh sĩ! Chúng tôi xin hiến cho Ngài, hai nghìn Thiên nữ này, Ngài hãy nhận để làm người hầu hạ. Họ sẽ giúp đở cho Ngài công việc khi cần.
Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ con bèn nói với họ: Kiều Thi Ca! Không nên đem hàng Thiên nữ như thế mà hiến tặng cho sa môn Thích tử chúng tôi. Việc làm đó phi pháp, hàng sa môn Thích tử chúng tôi không thể nhận những người như thế để giúp việc.
Con nói chưa dứt lời thì Ông Duy Ma Cật đến, bảo con rằng:
đấy.
Nầy Ngài Trì Thế! Họ không phải là Đế Thích. Họ là ma đến để trêu ghẹo ông
Ông Duy Ma Cật bèn nói với các ma: Các cô gái kia ơi! Hãy hiến các cô cho tôi! Như tôi đây mới là người đáng nhận sự hầu hạ giúp đở của các cô.
Bấy giờ bọn ma rất sợ hãi, nghĩ rằng: Có thể Ông Duy Ma Cật sẽ làm bức não chúng ta!
Tất cả đều muốn biến hình trốn đi, nhưng vẫn không biến được. Chúng vận hết sức thần cũng không sao ẩn hình trốn thoát. Bỗng nhiên, trên không trung có tiếng vọng lên rằng: “Ma Ba tuần hãy hiến tặng các cô gái ấy đi thì mới có thể rời khỏi nơi đó”.
Bọn ma cả sợ, lạy sấp, lạy ngửa mà dâng.
Bấy giờ Ông Duy Ma Cật bảo các cô gái rằng: Ma đã hiến các cô cho tôi rồi! Các cô nên phát tâm vô thượng Bồ Đề đi!
Sau đó, tùy căn tánh mỗi người, trưởng giả Duy Ma Cật thuyết pháp khiến cho hàng ma nữ vui mừng phát tâm hướng về Phật đạo…
Trưởng giả Duy Ma Cật dạy tiếp: Các cô đã phát tâm theo Phật đạo, các cô sẽ có cái vui chính của các cô, mà không cần đến cái vui của ngũ dục nữa.
Thiên nữ hỏi: Cái vui đó là thế nào?
Ông Duy Ma Cật đáp: Vui thường tin Phật. Vui ham nghe Pháp. Vui cúng dường Tăng. Vui vĩnh ly ngũ dục. Vui quán ngũ ấm như ác tặc. Vui quán tứ đại như độc xà. Vui quán nội nhập như rỗng không. Vui thuận theo ý đạo. Vui lợi ích chúng sanh. Vui kính trọng và cúng dường sư trưởng. Vui làm bố thí được nhiều. Vui giữ giới kiên trì và thanh tịnh. Vui nhẫn nhục nhu hòa. Vui siêng nhóm thiện căn. Vui thiền định không loạn. Vui cấu hết, tuệ sanh. Vui được tâm Bồ Đề rộng lớn. Vui hàng phục các ma. Vui đoạn các phiền não. Vui thấy cõi Phật thanh tịnh. Vui thành tựu tướng hảo. Vui tu các công đức lành. Vui trang nghiêm đạo tràng. Vui nghe pháp sâu xa mà không sợ. Vui với tam giải thoát môn. Vui gần bạn đồng học. Vui ở trong chỗ phi đồng học mà tâm không bị chướng. Vui chuyển hóa được những người ác tri thức. Vui tâm thường thanh tịnh. Vui tu vô lượng đạo phẩm. Đó là pháp vui của Bồ Tát, các cô nên biết. Khi bấy giờ, Ma Ba tuần bảo các ma nữ rằng: Ta muốn các ngươi cùng ta hãy trở về thiên cung.
Các ma nữ nói: đã hiến chúng tôi cho cư sĩ, bấy giờ chúng tôi có được pháp vui, chúng tôi vui lắm rồi. Từ đây chúng tôi không thích cái vui ngũ dục nữa.
Ma Ba tuần nói: Thưa cư sĩ! Mong Ngài thả các cô ấy đi! Theo chúng tôi biết Bồ
Tát hạnh là xả thí tất cả các sở hữu của mình cho người khác.
Ông Duy Ma Cật nói: Tôi đã thả rồi, các cô tự ý mà đi. Các cô hãy nhớ làm thế
nào cho chúng sanh đều được học chánh pháp như các cô vậy.
Bấy giờ các cô gái hỏi Ông Duy Ma Cật: Khi trở về cung ma, chúng tôi phải làm gì? Thưa Ngài Duy Ma Cật!
Ông Duy Ma Cật bảo: Này các cô! Có pháp môn tên là :”Vô tận đăng”, các cô hãy siêng năng tu học. Vô tận đăng có nghĩa là cây đèn vô tận. Ví như một ngọn đèn đem mồi thêm ra cả trăm ngọn đèn, khiến cho chỗ tối được sáng, sáng rộng và sáng mãi mà ngọn đèn nguyên thủy chẳng hao mòn chút ánh sáng nào. Cũng như vậy, thưa các cô! Bồ Tát có thể dạy dỗ cho trăm, ngàn chúng sanh khiến cho họ phát tâm vô thượng Bồ Đề mà đạo tâm và đạo hạnh của Bồ Tát chẳng có giảm sút. Ví như ngọn vô tận đăng ấy! Các cô dù ở cung ma xử dụng pháp “Vô tận đăng” khiến cho chư Thiên tử, thiên nữ phát tâm vô thượng Bồ Đề, thì chính các cô đã đền đáp thâm ân Phật.
Bấy giờ các Thiên nữ đầu mặt lễ dưới chân Ông Duy Ma Cật. Lễ xong, cùng theo thiên ma về cung. Tất cả hốt nhiên biến mất.
Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Trì Thế thưa: Trưởng giả Duy Ma Cật có trí biện tài tự tại như thế, cho nên con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh”.
TRỰC CHỈ
Ma Ba Tuần mà nhận là Thiên Đế Thích. Thế là lầm lẫn đối tượng trong khi thuyết pháp.
Pháp thuyết sai đối tượng không phát huy được công dụng của pháp. Thuốc hay trị không đúng bệnh mất đi công hiệu của thuốc. Bệnh trị không đúng thuốc, uống thuốc cũng như không.
Sợ ma bị ma nhiểu loạn. Không sợ ma, ma sợ lại. Bồ Tát Trì Thế không dám nhận “Thiên nữ”, lại được ép tặng ‘Thiên nữ” cho. Bồ-Tát Duy Ma Cật rất bằng lòng nhận các “Thiên nữ”, tất cả “Thiên nữ” đều kinh tâm táng đởm.
Đối với ma quân, Bồ Tát gặp lúc cần phải trực diện đương đầu. Từ đó thi thố khả
năng điều phục.
Phật tánh tùy duyên nhi bất biến. Bất biến nhi tùy duyên.
Dù là “Nữ thiên ma”, khi gặp thiện tri thức khai thị Phật tri kiến cho mình, ma có khả năng quay về chánh đạo, phát tâm cầu tiến vô thượng Bồ Đề.
Vui trong ngũ dục, là cái vui của người nướng mình trên hầm lửa. Cái vui của con người bệnh hoạn. nhiễm nặng vi rút vô minh.
Người trí chọn cho mình cái vui trường cửu ở mọi hoàn cảnh ở mọi thời gian. Bồ Tát Duy Ma Cật nói:
Vui thường tin Phật. Vui ham nghe Pháp. Vui cúng dưòng Tăng.Vui vĩnh ly ngũ dục. Vui quán ngũ ấm như oán tặc. Vui quán tứ đại như độc xà. Vui thuận theo ý đạo. Vui lợi ích chúng sanh. Vui kính trọng sư trưởng. Vui bố thí được nhiều. Vui giữ giới thanh tịnh. Vui nhẫn nhục nhu hòa. Vui tinh tấn thiện hạnh. Vui thiền định không loạn. Vui trí tuệ tăng trưởng.
Dù là thiên ma, khi phát Bồ đề tâm là đã “Hồi đầu thị ngạn”. Bấy giờ các thiên nữ có cái vui chân thật không còn thích cái vui ngũ dục nữa. Các cô từ chối không muốn trở lại ma cung.
Bồ Tát Duy Ma Cật cho rằng các cô có thể trở về ma cung mà chẳng có tổn hại gì. “Ngọc trắng dù ở trong bùn bẩn, không vì vậy mà hoen ố sắc màu”.
“Người phát Bồ Đề tâm dù ở trong cảnh trược, không vì vậy nhiễm loạn chất thanh cao”.
Điều cốt yếu, các cô hãy luôn luôn bồi dưõng trí tuệ, phát Bồ đề tâm ngày thêm rộng lớn.
Để đền đáp ơn Phật, các cô hãy mồi thêm mãi “Vô tận đăng” khiến cho chỗ tối
được sáng, chỗ sáng được rực rỡ huy hoàng.
Vô tận đăng tức là ngọn đèn chánh pháp. Học Bồ Tát hạnh, các cô có trách nhiệm truyền bá rộng rãi đến tất cả, khiến cho thiên tử, thiên nữ phát Bồ đề tâm thì các cô đền đáp được thâm ân Phật.
IV.- HỘI ĐẠI THÍ
Bấy giờ Phật gọi trưởng giả tử Thiện Đức bảo: “Thiện Đức! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”.
Thiện Đức thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Vì trước đây, lúc ở tại nhà của thân phụ, con có thiết lập một hội đại thí, kỳ hạn bảy ngày cúng dường các sa môn, Bà la môn, ngoại đạo và bố thí cho tất cả những người nghèo khó, cho những kẻ ăn xin. Khi bấy giờ, Ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng:
Thưa trưởng giả tử! Hội đại thí lập như vậy chưa đúng. Ngài lập hội tài thí trong bảy ngày, những người được thọ thí đở khổ trong bảy ngày. Sau bảy ngày họ không còn gì nương cậy. Ngài nên lập hội pháp thí mới đem lại lợi ích lâu dài cho người thọ thí.
Con hỏi: Hội pháp thí là thế nào?
Ông Duy Ma Cật nói: Hội pháp thí không phải chỉ có lợi cho thời gian trước hay thời gian sau, trong một thời cúng dường cho tất cả chúng sanh.
- Thế nghĩa là sao? Thưa cư sĩ, con hỏi.
- Nghĩa là vì vô thượng Bồ đề, khởi từ tâm. Vì cứu độ chúng sanh, khởi bi tâm. Vì hộ trì chánh pháp, khởi hỉ tâm. Vì sự nghiệp trí tuệ, khởi xả tâm. Vì hóa độ xan tham khởi bố thí ba la mật. Vì hóa độ phạm giới, khởi trì giới ba la mật. Vì biết rõ tánh vô ngã của các pháp, khởi nhẫn nhục ba la mật. Vì biết rõ thân tâm như huyễn, khởi tinh tấn ba la mật. Vì Bồ đề, khởi thiền định ba la mật. Vì nhất thiết chủng trí, khởi bát nhã ba la mật. Vì giáo hóa chúng sanh, khởi quán vạn pháp giai không. Nhằm trực diện với các pháp hữu vi, khởi quán chư tướng vô tướng. Thị hiện thọ sanh, mà khởi quán không, vô tác. Nhằm truyền bá chánh pháp, khởi nhiều phương tiện. Nhằm hóa độ chúng sanh, thực hành pháp tứ nhiếp. Vì cung kính tất cả, khởi trừ tâm ngã mạn. Vì biết rõ thân mệnh tài như huyễn, khởi ái mộ pháp thân, bát nhã và giải thoát. Đối với lục niệm, thường khởi tưởng niệm. Đối với pháp lục hòa, khởi tâm chánh trực. Dùng tâm hoan hỉ, khởi ý gần gủi thánh hiền. Khởi tâm điều phục, không ghét người ác. Với pháp xuất gia, khởi tâm kính mộ. Vì tri hành không lệch lạc, khởi ý chí đa văn. Nhằm tránh mọi ràng buộc, khởi ý đặt mình như ở chỗ cô tịch. Nhằm đạt đến Phật tuệ, khởi chí tọa thiền. Vì ái mộ cõi Phật thanh tịnh, khởi làm việc phước đức.
Thế đấy, Thiện nam tử! Nếu Bồ Tát lập hội pháp thí như thế, thì vừa là đại thí chủ
vừa là phước điền cho tất cả chúng sanh.
Bạch Thế Tôn! Trưởng giả tử Thiện Đức thưa. Ông Duy Ma Cật thuyết thời pháp
ấy, có hai trăm Bà la môn phát tâm vô thượng Bồ Đề. Riêng con cảm thấy tâm mình được cởi mở nhẹ nhàng thanh thoát. Con đảnh lễ dưới chân Ông và cởi xâu chuổi anh lạc giá trị trăm ngàn vàng dâng cúng; nhưng Ông Duy Ma Cật không nhận.
Sau lời thỉnh cầu, hiến dâng thành khẩn của con, Ông Duy Ma Cật nhận lấy và liền chia làm hai phần. Một phần bố thí cho người hành khất tối hạ cơ cực nhất. Một phần Ông dâng cúng đức Nan Thắng Như Lai. Khi bấy giờ cả chúng hội đều được thấy cõi nước trang nghiêm của đức Nan Thắng. Đồng thời thấy chuỗi anh lạc biến thành bốn trụ cột của một bảo đài. Bốn mặt đài đẹp đẽ trang nghiêm và trong suốt không chướng ngại nhau.
Ông Duy Ma Cật nói với đại chúng rằng: Một thí chủ bố thí cho người hành khất tối hạ bằng tấm lòng bình đẳng y như cúng dường đấng Như Lai phước điền tối thượng. Cúng dường và bố thí phát xuất từ một bi tâm. Không hy vọng trả ơn không mong cầu phước báu.
Đó là mô hình của hội pháp thí viên mãn nhất.
Bạch Thế Tôn! Trưởng giả tử Thiện Đức thưa: Những người hành khất tối hạ thấy thần lực của Ông Duy Ma Cật và nghe thuyết những pháp thậm thâm như thế, họ đều phát tâm hướng về vô thượng Bồ Đề. Vì duyên cớ đó, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”.
Nhiều vị Bồ Tát ở trước Phật cùng trình bày những trường hợp bị khiển trách của mình. Tất cả đều từ khước không dám đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.
TRỰC CHỈ
Bố thí cúng dường là hạnh thứ nhất trong lục độ Ba la mật.
lai.
Bố thí cúng dường đúng chánh pháp, lợi mình, lợi người, lợi ở hiện tại và tương
Bố thí cúng dường không đúng chánh pháp có thể đem lại cho mình hậu quả khổ đau đời nầy kiếp nọ. Phật là người trí mới thấy biết hết điều nầy.
Bố thí cúng dường có hai cách: Một, thí tài. Hai, thí pháp. Bố thí tài có hai cách: Một, nội tài. Hai, ngoại tài.
Nội tài, người tại gia hay xuất gia đều làm được.
Ngoại tài, để cho vua quan, cư sĩ, cận sự nam, cận sự nữ.
Cúng dường đồng nghĩa như bố thí. Cúng dường là bố thí cho kẻ bề trên. Bố thí là cúng dường, không phân biệt đối tượng.
Người thọ lễ cúng dường, kẻ nhận quà bố thí, thực chất đều là “Khất thực”, không ai hãnh diện hơn ai.
Đó là dụng ý thâm sâu của Thế Tôn ta về bài học “Diệt ngã vì vô ngã”.
Tài thí giúp cho người “đở ngặït” chưa giúp được “đỏ nghèo”. Yêu cầu “đở khổ” tài thí chẳng gíúp được gì.
Đạo Phật lấy sự cứu khổ là chánh: Cứu ngặt, cứu nghèo, phần việc đó có vua, quan, cư sĩ…Các nhà khoa học, kỹ thuật, kinh tế gia chăm lo việc xã hội ấy.
Lập hội pháp thí mới là cứu khổ cho tất cả mọi người trong mọi giai tần xã hội. Lợi ích của pháp thí không có biên giới. Vua. quan, cư sĩ giàu nghèo, sang hèn đều có khổ. Chỉ khác nhau hoàn cảnh và môi trường. Khổ không có ranh giới quá khứ, hiện tại hay tương lai.
Chỉ có hội pháp thí trong một thời mới có thể cúng dường cho tất cả.
Người hoàn thành pháp thí hội, vừa là đại thí chủ, vừa là phước điền cho tất cả
chúng sanh.
Người hoàn thành pháp thí hội phải là người làm được những việc sau:
- Vì vô thượng Bồ Đề, khởi tâm Từ.
- Vì cứu độ chúng sanh, khởi tâm Bi.
- Vì hộ trì chánh pháp, khởi tâm Hỉ.
- Vì sự nghiệp trí tuệ, khởi tâm Xả.
- Vì độ xan tham, khởi Bố thí ba la mật.
- Vì độ sai trái của ba nghiệp, khởi Trì giới Ba la mật.
- Vì độ tánh chấp ngã, khởi Nhẫn nhục Ba la mật.
- Vì nhận rõ thân tâm như huyễn, khởi Tinh tấn Ba la mật.
- Vì Bồ Đề, khởi Thiền định Ba la mật.
- Vì nhất thiết chủng trí, khởi Trí tuệ Ba la mật.
- Vì giáo hóa chúng sanh, khởi Vạn pháp giai không.
- Vì đối diện các pháp hữu vi, khởi Chư pháp vô tướng.
- Vẫn thọ sanh khởi Không vô tác.
- Vì hoàng dương chánh pháp, khởi nhiều Phương tiện.
- Vì hóa độ chúng sanh, khởi Tứ nhiếp pháp.
thoát.
- Vì biết rõ thân, mệnh, tài như huyễn, khởi tâm ham mộ Pháp thân Bát nhã, giải
- Vì tri hành chân lý, khởi Đa văn.
- Vì giải thoát triền phược, khởi Cô tịch độc hành.
- Vì Phật trí tuệ, khởi Tọa Thiền…
Nói tóm lại, những kinh điển Đại thừa khó nghe, khó hiểu, khó tin, khó hành. Mà nghe được, hiểu được, tin được và thực hành được. Từ đó, mình được giác ngộ, giải thoát trước rồi mới truyền bá cho mọi người học tu để cùng được giác ngộ, giải thoát.
tối”.
Đó là cách cúng dường ưu việt nhất. “Chư cúng dường trung, pháp cúng dường
Người cúng chuỗi anh lạc phát xuất từ tâm thanh tịnh vô cầu. Người nhận chuỗi, không thấy nhận, thỏa lòng ham muốn.
Một phần cúng dường người ăn xin tối hạ. Một phần cúng dường đức Nan Thắng
Như Lai tối thượng.
Tuyệt diệu thay! Tinh thần Bình đẳng! Năng sở bình đẳng. Cao hạ bình đẳng.
Do vậy chuỗi anh lạc kết thành bốn cột trụ trong suốt của tòa bảo đài chân lý.
Trang: 1 2 3 4
DUY MA CẬT – Tập I(Chương 3)

DUY MA CẬT – Tập I(Chương 3)

CHƯƠNG THỨ BA
THANH VĂN
I.- VẤN ĐỀ THIỀN
Bây giờ Trưởng giả Duy Ma Cật tự nghĩ: nay mình nhuốm bệnh nằm một mình một giường và một thất, đức Thế Tôn là bậc đại từ rồi đây thế nào cũng xót thương và sai người đến thăm bệnh. Phật biết thâm ý của Trưởng giả Duy Ma Cật, bèn gọi Ông Xá Lợi Phất đến và bảo:
1.- Xá Lợi Phất! Thầy hãy đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật. Hiện nay Ông
ấy có bệnh. Ông Xá Lợi Phất thưa:
Bạch Thế Tôn! Con xin Thế Tôn thương cho! Con không kham lãnh trách nhiệm đến thăm bệnh Ông ấy. Bạch Thế Tôn! Vì trước đây có một hôm nọ, con đang ở trong rừng ngồi thiền dưới một cội cây. Tình cờ Ông Duy Ma Cật đến, nói với con rằng: Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Ngài bất tất phải ngồi như thế mới là ngồi thiền! Luận về
việc ngồi thiền, thiền giả không dính mắc tam giới mà thân tâm vẫn sinh hoạt mới là ngồi thiền. Sinh hoạt trong oai nghi như bình nhật mà không rời diệt tận định mới là ngồi thiền. Làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không xao lãng đạo pháp mới là ngồi thiền. Tâm không cột vào trong mà cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền. Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín, hoang đường mà tâm không bị lay động, không bị mê hoặc, cám dỗ, xiêu lòng, vững tâm trong 37 phần trợ đạo, thế mới là ngồi thiền. Không khởi tâm đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết bàn, thế mới là ngồi thiền. Ngồi được như thế thì đó là thứ thiền được Phật ngợi khen và ấn khả, thưa Ngài Xá Lơi Phất.
Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa. Sau khi con nghe những lời như thế, con lặng người ra gần như sảng sốt, chẳng trả lời được với Ông Duy Ma Cật câu nào. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.
TRỰC CHỈ
1.- Thiền là pháp môn tu phổ biến trong đạo Phật. Sau Phật Niết Bàn, giáo lý Phật bị phân hóa. Tùy căn cơ nhận thức, họ chia thành bộ phái. Từ bộ phái tiến tới chỗ lập tông chỉ riêng. Từ đó có cái từ “Tông phái”.
Lập trường của các Tông phái “Tiểu dị đại đồng”. Nghĩa là bên mặt hình thức thì mỗi tông phái có khác. Nhưng tất cả đều xử dụng chất liệu Thiền để phát huy hiệu quả trên đường thăng tiến Bồ Đề vô thượng. Tu mà không có Thiền giống như ăn cơm không có muối. Dù có được ăn, nhưng yếu đuối, èo uột, ngày chết chẳng còn xa.
Người thọ tam qui, ngũ giới cũng phải học Thiền. Có Thiền mới nhớ Phật, nhớ
Pháp, nhớ Tăng. Có Thiền mới chận đứng những sai trái mình sắp làm.
Tu Thập thiện nghiệp để hưởng phước báu người, Trời, cũng phải học Thiền, tham thiền.
- Sơ thiền, tham đề tài “Ly” cấp I.
- Nhị thiền, tham đề tài “ĐỊNH”
- Tam thiền, tham đề tài “LY” cấp II.
- Tứ thiền, tham đề tài “XÔ…
Đó là quá trình hành thiền của Thiên thừa Phật giáo.
Để được A LA HÁN quả, thiền phải tích cực hơn nhiều. Phải thường xuyên liên tục để thu nhiếp tâm và làm chủ tự tâm. Vì vậy Ngài Xá Lợi Phất say sưa trong tỉnh tọa ở mé suối ven rừng. Ngài Duy Ma Cật có dịp gặp gỡ luận đàm thiền vị.
Ba mươi bảy phần trợ đạo là đề mục thiền của hàng Thinh Văn tham tọa:
-TỨ NIỆM XỨ: 1.- Quán thân bất tịnh.
2.- Quán tho ïthị khổ.
3.- Quán tâm vô thường.
4.- Quán pháp vô ngã.
- TỨ CHÁNH CẦN: 1.- Việc ác chưa sanh cố gắng ngăn
chận.
2.- Việc ác đã sanh cố gắng dứt trừ.
3.- Việc thiện đã sanh cố gắng phát triển.
4.- Việc thiện chưa sanh cố gắng phát
khởi.
- TỨ NHƯ Ý TÚC: 1.- Mong muốn điều thiện.
2.- Tinh tấn làm thiện.
3.- Vui làm được việc thiện.
4.- Quyết tâm không rời việc thiện.
- NGŨ CĂN: 1.- Luôn bồi dưỡng đức tin Tam Bảo.
2.- Tinh tấn trên đường đạo
3.- Luôn nhớ Phật, Pháp, Tăng.
4.- Luôn bồi dưỡng định lực.
5.- Luôn bồi dưỡng và nâng cao trí tuệ.
- NGŨ LỰC: 1.- Tín tâm kiên cố.
2.- Tinh tấn kiên cố.
3.- Niệm tưởng kiên cố.
4.- Định tâm kiên cố.
5.- Tuệ giác kiên cố.
- THẤT GIÁC CHI: 1.- Trạch pháp.
2.- Tinh tấn.
3.- Hỉ.
4.- Khinh an.
5.- Niệm.
6.- Định.
7.- Xã.
- BÁT CHÁNH
ĐẠO: 1.- Chánh kiến.
2.- Chánh tư duy.
3.- Chánh ngữ.
4.- Chánh nghiệp.
5.- Chánh mạng.
6.- Chánh tinh tấn.
7.- Chánh niệm.
8.- Chánh định.
độ:
Bồ Tát thừa thi hành Thiền và phát huy Thiền theo quá trình tiệm tiến qua Lục
- LỤC ĐỘ:
1.- Bố thí thiền.
2.- Trì giới thiền.
3.- Nhẫn nhục thiền.
4.- Tinh tấn thiền.
5.- Thiền định thiền.
6.- Trí tuệ thiền.
Năm độ trước thiền phát huy phước đức. Độ thứ sáu thiền phát huy trí tuệ, để Bồ
Tát hoàn thành Phước Huệ song tu và chuẩn bị bước lên đỉnh cao Bồ Đề vô thượng.
Đến Phật quả gọi là Như Lai thiền.
Huyền Giác thiền sư nói:
“Đốn giác liễu Như Lai thiền
Lục độ vạn hạnh thể trung viên”
Bồ-Tát Duy Ma Cật luận về thiền và giới thiệu cho Ngài Xá Lợi Phất về Như Lai thiền ấy.
Như Lai thiền không nhất thiết phải “tọa” mới có “thiền”. Như Lai thiền đi, đứng, nằm, ngồi đều hiệu quả như nhau.
Thiền định có nghĩa “Tư duy tu”. Đối cảnh thì tư duy, có đề tài thì quán chiếu. Không luận đứng, đi, nằm, ngồi.
Thiền định còn có nghĩa là “Tĩnh lự”. Thiền giả “Tư lự” một đề tài trong lúc tâm thật yên tĩnh.
Một câu thoại đầu là một đề tài. Một công án là một đề tài. Thoại đầu công án là đề tài cũ sao chép của người xưa. Có đề tài lạc hậu không còn tác dụng trong thời hiện đại.
Thiền giả có thể sáng tác đề tài thiền trong mọi chốn nơi, ở mọi hoàn cảnh và mọi thời gian.
Rút lại, thiền là pháp tu phổ biến trong toàn bộ giáo lý Phật. Học kinh, luật, luận rồi phải hành thiền mới đem lại kết quả.Các tông: Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Pháp Hoa tông triển khai thiền thiên nặng về pháp tánh. Duy Thức tông, Tam luận tông, Luật tông, Tịnh Độ tông, Chân ngôn tông triển khai thiền thiên nặng về pháp tướng.
Do vậy, chỗ ở của người tu sĩ Phật giáo được gọi “Thiền môn”.
II.- VẤN ĐỀ THUYẾT PHÁP
Đức Phật gọi Ông Đại Mục Kiền Liên bảo: “Mục Kiền Liên! Thầy hãy đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”. Ông Mục Kiền Liên thưa:
“Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông ấy. Bạch Thế Tôn! Trước đây có lần con đi vào thành Tỳ Da Ly. Trong một thôn xóm nọ, con vì một nhóm cư sĩ nói pháp cho họ nghe. Bây giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng:
1.- Thưa Ngài Mục Kiền Liên! Vì hàng bạch y cư sĩ nói pháp Ngài không nên nói những pháp như vậy. Phàm nói pháp phải nói pháp “NHƯ” của pháp. Bởi vì pháp không có tướng chúng sanh, xa lìa sự cấu nhiễm về chúng sanh. Pháp không có tướng thọ mệnh, xa lìa sanh tử ưu bi. Pháp không có tướng nhơn, vì thời gian trước và thời gian sau không phải là một. Pháp thường vắng lặng, vì dứt bặt các tướng. Pháp ly tất cả tướng, vì nó không phải đối tượng sở duyên. Pháp không có tên, không có lời để gọi, vì ngoài sự nghỉ ngơi nói năng. Pháp không có gì để nói, vì nó ly các giác quán. Pháp không hình tướng, vì nó như hư không. Pháp không như trò giởn, vì nó hoàn toàn rỗng lặng. Pháp không phải là ngã sở, vì nó rời ngoài ngã sở. Pháp không thể phân biệt, vì nó vượt ngoài sự nhận thức đánh giá. Pháp không có thể so sánh, vì nó không ở trong vòng đối đải. Pháp không lệ thuộc vào nhơn, vì pháp tồn tại ở duyên. Pháp hoà đồng pháp tánh, vì nó dung nhập với pháp tánh. Pháp tùy thuận với pháp “Như”, vì nó không chỗ tùy. Pháp trụ nơi thật tế, vì pháp bất đồng với bên hữu bên vô, bên đoạn bên thường. Pháp không có giao động, vì nó không tương can với lục trần. Pháp không có đến đi, vì pháp vốn là bất trụ. Pháp thuận với không, tùy vô tướng, hợp với vô tác. Pháp rời tốt xấu. Pháp không tăng nhiều, khônggiãm thiểu. Pháp không có chỗ qui thú, nó vượt qua nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân tâm. Pháp không có cao thấp, pháp thường trú bất động. Pháp xa lìa tất cả sự nghĩ ngợi và thi thố.
Thưa Ngài Mục Kiền Liên! Pháp như thế thì làm sao mà có thể nói được? Luận đến chỗ cứu kính của vấn đề thuyết pháp thì người nói không nói gì hết,
không phô bày gì hết. Người nghe không nghe gì hết và không được có một sở đắc nào. Ví như ảo thuật sư làm ra người ảo, người ảo lại nói chuyện ảo. Phải xác lập ý thức kiên định như thế rồi mới nên thuyết pháp.
2.- Còn nữa thưa Ngài Mục Kiền Liên! Người thuyết pháp phải biết căn tánh của chúng sanh. Trước một hay nhiều đối tượng phải đọc thấy rõ rằng căn tánh của họ lợi hay độn, phải lấy tâm đại bi mà khen ngợi đại thừa. Phải nghĩ rằng thuyết pháp là truyền bá, duy trì cho ngôi Tam Bảo cửu trụ thế gian. Thuyết pháp nhằm để báo đáp thâm ân Phật. Phải lập chí như vậy, rồi sau mới thuyết pháp.
Bạch Thế Tôn! Ông Mục Kiền Liên thưa. Sau khi trươüng giả Duy Ma Cật nói thời pháp đó, có 800 cư sĩ phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Bạch Thế Tôn! Con không đươc biện tài như thế, cho nên con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.
TRỰC CHỈ
1.- Pháp có pháp tánh và pháp tướng. Pháp liễu nghĩa, pháp bầt liễu nghĩa, pháp đại thừa, pháp tiểu thừa. Về pháp tánh, khởi ý nghĩ đã sai. Mở lời nói không đúng. Bồ Tát Duy Ma Cật gọi thứ pháp tánh đó là pháp NHƯ. Như có nghĩa là tự nó sao để vậy. Đừng nói càn đừng nghĩ ngợi. Vì nó ly tất cả. Ly văn tự, ly ngôn thuyết, ly tâm duyên.
Người nói được pháp tánh phải là người thành thạo diễn đạt nghĩa lý của chữ
“BẤT” và “VÔ”.
Đại Mục Kiền Liên là Thanh văn chủng tánh chưa hiểu diệu lý: “…Chư pháp không tướng, BẤT sanh, BẤT diệt, BẤT cấu, BẤT tịnh, BẤT tăng, BẤT giãm…” Chưa hiểu được: “VÔ sắc, VÔ thọ, VÔ tưởng, VÔ hành, VÔ thức… VÔ nhãn,
nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý…” Người thể nhập diệu lý đó, khi thuyết pháp thường thuyết pháp
NHƯ.
Bồ Tát Duy Ma Cật muốn Ngài Đại Mục Kiền Liên truyền đạt pháp Như cho mọi người. Có vậy, người nghe pháp mới được lợi ích lớn.
2.- Theo Bồ Tát Duy Ma Cật, nhìn đối tượng, nhận xét căn cơ là một chi tiết không thể thiếu của một vị pháp sư.
Phải quán cơ rồi mới nên thuyết pháp. Thuyết đúng đối tượng pháp đó mới đem lại lợi ích cho người nghe. Người nói thì đền đáp được thâm ân Phật.
III.- VẤN ĐỀ KHẤT THỰC
Đức Phật gọi Ông Đại Ca Diếp đến và bảo: “Đại Ca Diếp! Thầy hãy đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật, ông ấy đang có bệnh”. Ông Ca Diếp thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông Duy Ma Cật. Bạch Thế Tôn! Vì con nhớ trước đây, một hôm nọ con đi khất thực trong một xóm nghèo, Ông Duy Ma Cật gặp và thuyết pháp cho con một thời pháp dài rằng: “Thưa Ngài Đại Ca Diếp, Ngài có tâm từ mà không phổ biến, chẳng bình đẳng đối với chúng sanh. Ngài chừa nhà giàu, tìm nhà nghèo để mà khất thực. Thưa Ngài Đại Ca Diếp! Hãy nên trụ ở pháp bình đẳng, khất thực theo thứ tự của xóm làng. Không phải vì ăn mà khất thực thì mới nên đi khất thực. Nhằm hoại diệt cái thân tướng hòa hiệp này mà nhận lấy thức ăn nắm vắt đấy. Phải xử dụng cái ý tưởng không thọ nhận, mới thọ nhận thức ăn. Vào làng xóm, phải tưởng như đến chỗ không người. Thấy sắc mà như đui. Nghe thanh như nghe vang. Ngửi hương như hít gió. Nếm vị nhưng không phân biệt. Thọ xúc như tri chứng. Biết tướng của các pháp như huyễn, xưa vốn không sanh cho nên nay không có diệt.
Còn nữa thưa Ngài Đại Ca Diếp! Có thể không cần rời bỏ bát tà mà được bát giải thoát. Ngay nơi tà pháp mà thể nhập chánh pháp. Một chút thức ăn có thể đem bố thí cho tất cả, có thể cúng dường chư Phật và các hiền thánh, sau đó mới đáng ăn!
Ăn bằng cách như vậy, sẽ không có phiền não cũng không rời phiền não. Không dụng ý nhập định cũng không dụng ý xã định. Kkông trụ thế gian cũng không trụ Niết Bàn. Người thí chủ không có phước lớn cũng không có phước nhõ, không thêm công đức cũng chẳng mất công đức. Đấy là con đường vào Phật thừa đạo chơn chánh, không chờn vờn khập khểnh ở cổ xe bé bỏng của Thanh văn.Thưa Ngài Đại Ca Diếp! Nếu được như thế mà ăn thì mới không luống uổng thức ăn của người thí chủ cúng dường”. “Bạch Thế Tôn! Ông Ca Diếp thưa. Lúc con nghe bài pháp ấy rồi, con được cái
chưa từng có. Ngay lúc đó con sanh tâm cung kính chư Bồ Tát một cách thân thiết chân thành. Vì con nghĩ rằng, ngoài địa vị Bồ Tát, không ai có thể có trí tuệ biện tài thâm diệu như thế. Thảo nào người nghe ai mà chẳng phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Từ đó về sau con không khuyên dạy ai học tu theo pháp Thanh văn, Bích chi Phật nữa. Vì lẽ đó con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”.
TRỰC CHỈ
Khất thực là một hạnh trong mười hai hạnh đầu đà. Sống đời khất thực có thể
phủi dũ được từng phần phiền não, cởi mở được một ít mối manh ràng buộc.
Giàu nghèo là chuyện của xã hội, của chúng sanh, ai cóphần nấy.
Nghèo không hẳn khổ. Biết đạo đức, sống tri túc, nghèo cũng có thể an vui hạnh
phúc.
“Thanh bần thường lạc” là chuyện có thật.
Giàu không hẳn vui. Làm giàu bằng bất chánh, bất lương, bất nhân, bất nghĩa.
Bên ngoài giàu, bên trong lo âu sợ sệt, đau khổ triền miên. “Trọc phú đa ưu” là chuyện có thật.
Quan niệm giàu là người đầy đủ phước đức, được hưởng nhiều hạnh phúc là sai. Quan niệm nghèo là kẻ đáng thương, cần giúp đở để cho họ được hưởng phần nào hạnh-phúc, cũng sai.
Người tu sĩ, nhìn bằng tuệ nhãn không đánh giá khổ vui qua hình thức sự nghiệp nghèo, giàu.
BÌNH ĐẲNG là tiêu chuẩn đo đạo đức và quả chứng của người đạo sĩ. Từ vô lượng tâm của Phật thể hiện tiêu chuẩn đó.
Phải ban bố lòng từ bình đẳng như ánh sáng mặt trời chiếu xuống trần gian cho sanh linh vạn vật.
Nhằm tạo phước đức cho người nghèo, lòng từ đó có đối tượng, ví như ánh sáng của chiếc đèn “pin”.
Ý niệm năng độ, sở độ, hành vi năng thí, sở thọ còn, thì quả Bồ đề vô thượng hy vọng còn lâu.
Quan điểm khất thực của Bồ Tát, ăn là phụ, giáo hóa chúng sanh là chánh. Tạo phước cho chúng sanh là phụ, dạy cho chúng sanh thành Phật là chánh. Thuyết pháp cho chúng sanh là phụ, đoạn trừ vô minh phiền não cho mình là chánh. Dạy cho chúng sanh thành Phật là phụ, bồi dưỡng trí tuệ Phật cho mình là chánh.
Pháp liễu nghĩa thượng thừa không chủ trương cúng dường để được phước đức. Cũng không chủ trương chú nguyện ban phước đức cho người cúng dường.
Chủ trương người thí, người nhận đều là “Xứng tánh khởi tu”, “Tùy thuận pháp tánh”.
Người thí và người nhận đều thành Phật. Đến đó mới đạt mục tiêu
IV.- LẠI ĐỀ KHẤT THỰC
Đức Phật gọi Ông Tu Bồ Đề bảo: “Hiện giờ trưởng giả Duy MaCật đang bị
bệnh. Tu Bồ Đề! Thầy hãy đi thăm bệnh Ông ấy”.
1.- Ông Tu Bồ Đề thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông Duy Ma Cật. Bởi vì trước đây, có lần đi khất thực con ghé nơi nhà Ông, lúc bấy giờ Ông lấy bình bát của con sớt đầy một bát cơm và nói với con rằng:
Thưa Ngài Tu Bồ Đề: người khất thực ở nơi vật thực có tâm bình đẳng, ở nơi các pháp cũng có tâm bình đẳng. Ngược lại, ở nơi các pháp có tâm bình đẳng, ở nơi vật thực cũng có tâm bình đẳng. Khất thực được như thế, người khất thực mới xứng đáng nhận lấy vật thực của người thí chủ cúng dường.
2.- Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Không cần đoạn trừ dâm nộ si, mà cũng tùy thuận với dâm nộ si. Không cần hủy hoại thân nầy mà vẫn tùy thuận tướng nhất (Nhất chơn pháp giới), không cần diệt si ái mà cũng có giải thoát. Ngay nơi tướng ngũ đạo mà được giải thoát. Không mở cũng không cột, không học hạnh Tứ đế, không phải không học hạnh Tứ đế. Không đắc quả, không phải không đắc quả. Không phải phàm phu, không phải xa rời pháp phàm phu. Không phải Thánh nhân, không phải không Thánh nhân. Dù thành tựu tất cả pháp mà rời ngoài cái tướng của tất cả pháp. Được vậy, mới nên nhận lấy vật thực của người cúng dường.
3.-Còn nữa, thưa Ngài Tu Bồ Đề! Không cần tìm gặp Phật. Không cần nghe pháp Phật. Bọn lục sư ngoại-đạo: Phú Lâu Na Ca Diếp, Mạc Già Lê Câu Xa Lê Tử, Xan Xà Dạ Tỳ La Chi Tử, A Kỳ Da Xí Xá Khâm Bà La, Ca La Câu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử… Bọn đó phải là thầy của Ngài. Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Ngài hãy y chỉ vào họ mà xuất gia. Họ đọa địa ngục Ngài cũng đọa theo. Được vậy mới xứng đáng tho ïnhận vật thực của thí chủ cúng dường.
4.- Còn nữa, thưa Ngài Tu Bồ Đề! Cứ xông pha trong các thứ tà kiến, không cần tránh né để đến Niết Bàn. Phải ở ngay trong bát nạn, không được không nạn. Nhập cuộc với phiền não, xa lìa pháp thanh tịnh đi. Ngài được Tam muội vô tránh, tất cả chúng sanh cũng được Tam muội đó. Người thí chủ của Ngài không được gọi là gieo giống phước điền, kẻ cúng dường Ngài đọa trong ba đường ác. Họ là một cánh tay của bọn ma khuấy rối. Ngài cùng các bọn ma và các trần lao không hơn kém. Đối với tất cả chúng sanh phải có tâm oán. Chê báng Phật, hủy mạ pháp, không làm Tăng và không cần Niết Bàn. Nếu Ngài được như thế thì mới xứng đáng nhận lấy vật thực cúng dường.
Bạch Thế Tôn! Ngài Tu Bồ Đề thưa: Khi nghe những điều đó tâm trí con mờ mịt, không còn biết phải nói lời gì, và không biết phải đối đáp ra sao. Con bèn để bình bát xuống và muốn mau được đi khỏi nhà Ông Duy Ma Cật. Như đoán được ý con, Ông Duy Ma Cật nói tiếp: Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Ngài cứ nhận lấy bát cơm đi, đừng sợ. Ngài nghĩ thế nào? Giả như đức Như Lai hóa hiện ra một người, đem những điều như thế đàm luận với Ngài thì Ngài có sợ chăng…?
Không sợ. Bạch Thế Tôn! Con đáp như thế. Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp:
Tất cả các pháp như huyễn, như hóa, Ngài không nên có ý sợ sệt. Tất cả ngôn thuyết cũng là huyễn hóa. Bậc trí giả không dính mắc văn tự cho nên không có gì, vì tánh của văn tự vốn không. Hiểu được rằng văn tự vốn không có tánh thì người đó được giải thoát. Vì cái tướng giải thoát chính là tướng các pháp vậy.
Bạch Thế Tôn! Ông Tu Bồ Đề thưa. Sau khi Trưởng giả Duy Ma Cật nói thời pháp ấy rồi, có hai trăm vị thiên tử được pháp nhãn thanh tịnh. Do vậy, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông Duy Ma Cật.
TRỰC CHỈ
1.- Ngài Đại Ca Diếp khất thực bỏ nhà giàu, tìm nhà nghèo đã sai. Ngài Tu Bồ Đề bỏ nhà nghèo, tìm khất thực nhà giàu lý lẽ cũng không đúng. Bỏ giàu tìm nghèo, biểu lộ tánh chấp trong việc làm. Bỏ nghèo tìm giàu, biết đâu đó là thứ chứng bệnh phổ biến của chúng sanh. Dù là tánh chấp hay là chứng bệnh cũng là cái không nên có của một đạo sĩ.
Phải vận dụng tâm BÌNH ĐẲNG, thực hiện tứ vô lượng tâm, đi con đường
“Trung đạo” noi dấu chân Phật mà đi.
Giàu nghèo là chuyện của chúng sanh, người đạo sĩ không tham dự lo cái lo đó. Người đạo sĩ có cái lo riêng, kể từ lúc thế phát xuất gia hành đạo.
“…Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tránh chi đức”.
Đó là mối lo chánh đáng của một đạo sĩ.
2.- Thâm ngộ “Thật tướng” là vấn đề then chốt đối với một đạo sĩ.
Không thâm ngộ “Thật tướng” dù có nói ”tu” thế nầy, “Đọan” thế kia “Trừ” như
thế nọ chỉ là hí luận.
“Bất cầu vọng tưởng bất cầu chơn”.
Thâm nhập thật tướng, người đạo sĩ đối diện với tất cả, không né tránh, không trốn chạy, không dụng công Đoạn, không gắng sức Trừ…
3.- Gặp Phật qua 32 tướng tốt; gặp Phật qua giọng thuyết pháp hay, chưa hẳn đã gặp được Phật Như Lai. Gặp Như Lai Viên giác Diệu tâm mới thật gặp được Phật và mới nghe được pháp Phật.
V.- LẠI VẤN ĐỀ THUYẾT PHÁP
Đức Phật gọi Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đến bảo:
“Phú Lâu Na! Ông hãy đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật”.
Ông Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông ấy.
Bạch Thế Tôn! Trước đây vào một hôm nọ, con ở trong khu rừng đại lâm, cùng với một số tân học Tỳ Kheo ngồi dưới bóng mát của một cây cổ thụ. Lúc con đang thuyết pháp dạy cho số Tỳ Kheo tân học, tình cờ Trưởng giả Duy MaCật đến, nói với con:
Thưa Ngài Phú Lâu Na! Trước hết Ngài phải nhập định quán xét tâm tánh của các vị Tỳ Kheo, rồi sau đó hãy thuyết pháp.
Thưa Ngài Phú Lâu Na! Ngài không nên đem thức ăn thiu bẩn mà đựng trong chén ngọc đĩa vàng. Ngài phải biết ý niệm của các vị Tỳ Kheo đang nghĩ tưởng gì, nhiên hậu sẽ thuyết pháp. Không nên xử dụng một thứ nhìn đồng nhất rồi cho rằng lưu ly và thủy tinh là một. Ngài chưa biết căn cơ chủng tánh của chúng sanh thì đừng đem pháp tiểu thừa mà dạy cho họ. Họ vốn không có ghẻ, đừng làm cho lở loét một con người. Họ muốn đi đại lộ, đừng chỉ cho họ ngõ hẹp quanh co. Ngài đừng đem nước biển đựng vào dấu chân trâu. Đừng lấy ánh sáng mặt trời mà đọ với ánh lập lòe của đom đóm.
Thưa Ngài Phú Lâu Na! Các vị Tỳ Kheo ấy đã phát tâm đại thừa từ lâu, khoảng giữa họ quên đi tâm ý đó. Tại sao Ngài lấy pháp tiểu thừa hướng dẫn cho họ làm chi? Tôi nghĩ rằng thứ trí tuệ của hàng tiểu thừa nhỏ nhen, cạn cợt chẳng khác người đui. Họ không thể phân biệt được ai độn căn, ai lợi căn trong số chúng sanh, tâm họ vốn còn trong trắng. Bấy giờ Ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội truyền một lực tĩnh tâm khiến cho các vị Tỳ Kheo kia tự biết túc mệnh của mình: Rằng họ đã từng trồng sâu gốc rễ phước ở 500 đức Phật từ thuở xa xưa. Mọi người tự xoay về quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thoạt nhiên họ liền trở lại tâm đại thừa vốn có. Lúc bấy giờ các vị Tỳ Kheo ấy đảnh lễ dưới chân Ông Duy Ma Cật. Sau thời pháp của Trưởng giả Duy Ma Cật, các vị Tỳ Kheo ấy không còn thoái chuyển đối với ngôi vị vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bạch Thế Tôn! Ông Phú Lâu Na thưa. Qua sự kiện đó con suy nghĩ rằng hàng Thanh văn không thể quán xét căn tánh của người thì không nên thuyết pháp. Do vậy, hôm nay con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông Duy Ma Cật!
TRỰC CHỈ
Như ta đã biết. Pháp có pháp liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Có pháp Đại thừa và Tiểu thừa. Có pháp cứu cánh và pháp phướng tiện. Thế nên thuyết pháp cần phải quán căn cơ, nhìn đối tượng. Hồi tại thế, đức Phật thường vận dụng “Tứ tất đàn” mỗi khi thuyết pháp. Do vậy, pháp Phật có ngũ thừa. Ngài Phú Lâu Na thuyết pháp không phải sai pháp, nhưng sai đối tượng. Sai đối tượng người nghe không có kết quả, pháp đúng trở thành sai. Chiếc áo trăéng khi đã nhúng chàm, chiếc áo sẽ không còn nhuộm màu đẹp hơn được nữa. Nhuộm tâm hồn người ta bằng màu sắc tiểu thừa là làm bẩn một tâm hồn trong trắng. Cầu thần, khấn quỉ, van cô, lạy cậu, truyền bá thứ đức tin đó lại càng tệ lậu hơn nhiều. Người trí gọi đó là mê tín. Người ta có khả năng đi đại lộ, không nên chỉ ngõ hẽm quanh co. Chỉ sai đường làm chận trễ bước tiến của người đi, ơn không ra ơn mà có thể còn là một cái tội.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thì tất cả chúng sanh đều có chủng tánh Đại thừa. Được hướng dẫn bằng pháp Đại thừa thì hạt giống Đại thừa sẽ phát triển. Tu mà cầu phước báu là chưa biết giáo lý Phật. Được quả A La Hán là phước báu ư? Được Niết
Bàn an lạc là phước báu ư? Thành Phật là phước báu ư? Nói bậy! Bồ Đề, Niết Bàn là tự tánh vốn có của mọi người. Ở địa vị Thanh văn nó không tăng thêm, ở phàm phu nó không giãm bớt. Nước trong trăng hiện, mây đen tan trời xanh hiện, phiền não vô minh hết, Phật tánh hiện. Tất cả quả vị “Chứng đắc” không ai ban cho. Bồ Đề, Niết Bàn không do Phật thưởng. Nói phước báu là mhằm dẫn dụ những người sơ cơ. Đó là phương tiện ở trong phương tiện. Trâu sắt không sợ tiếng rống của sư tử. Người nộm không có ý bắt chim sẽ. Thể nhập thật tướng còn ngu si đâu nữa để kỳ thị với bọn ngoại đạo lục sư.
Ngũ uẩn thân hợp tan như mây nổi. Tham, sân, si chìm nổi như bọt bèo. Thì ai tạo nghiệp, ai chịu khổ?
4.- Không đoạn vọng, chẳng cầu chơn. Vì vọng chơn cả hai đều vọng.
Ở trong nước đừng nhọc công kiếm nước. Đứng trên non chớ phí sức tìm non.
Ở trong phiền não mà nhận lấy Bồ Đề. Ở trong sanh tử thọ hưởng Niết Bàn tự tại.
Được như thế, người đạo sĩ xứng đáng nhận lấy thức ăn. Và mục đích khất thực mới đạt yêu cầu.
VI.- THUYẾT PHÁP YẾU
Đức Phật gọi Ông Ca Chiên Diên bảo: “Ca Chiên Diên! Thầy hãy đi thăm bệnh
Trưởng giả Duy Ma Cật”.
1.- Ông Ca Chiên Diên thưa: “Bạch Thế Tôn! Trước kia con đã từng được nghe Phật nói pháp yếu cho các Tỳ Kkeo. Hôm nọ con cùng các Tỳ Kheo hội họp lại, con bèn trùng tuyên diễn nói lại về ý nghĩa vô thường, khổ ,không, vô ngã và tịch diệt…Lúc bấy giờ Trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:
2.- Thưa Ngài Ca Chiên Diên! Ngài không nên dùng tâm hành sanh diệt mà nói pháp thật tướng. Thưa Ngài, các pháp không sanh không diệt, đó là nghĩa vô thường. Ngũ ấm rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã. Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.
Sau khi Ông Duy Ma Cật diễn nói về những pháp yếu đó, các Tỳ Kheo tâm được cởi mở. Vì vậy hôm nay con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật”.
TRỰC CHỈ
Học Phật phải tập nhìn vạn pháp qua hai mặt. Thuyết pháp cũng vậy. Pháp có pháp tánh và pháp tướng. Chưa ngộ nhập “thật tướng”, chỉ nói được pháp tướng. Thể nhập thật tướng mới được pháp tánh. Thấy cái ta thật có, cho nên thấy cái ta vô ngã. Muốn ngã và ngã sở trường cửu nên thấy vạn pháp giai không. Thấy phiền não là thật, cho nên thấy tịch diệt Niết Bàn. Vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt, ÔÂng Ca Chiên Diên càng diễn giải tỉ mỉ chi ly, càng chứng tỏ tâm Ông bị dính mắc càng nhiều. Thật tướng vạn pháp là CHƠN THƯỜNG. Vì các pháp sanh không thật sanh. Các pháp diệt không thật diệt. Sanh diệt là hiện tượng tùy duyên, nhìn bên mặt pháp tướng. Không sanh không diệt là thật tướng các pháp nhìn bên mặt pháp tánh.
Vì thật tướng “VÔ” tướng.
Vì thấy vạn pháp sanh diệt VÔ THƯỜNG cho nên KHỔ.
Vì thấy VÔ THƯỜNG, KHỔ cho nên thấy vạn pháp KHÔNG.
Vì thấy VÔ THƯỜNG, KHỔ, KHÔNG, cho nên thấy vạn pháp VÔ NGÃ.
Vì thấy VÔ THƯỜNG, KHỔ, KHÔNG, VÔ NGÃ, cho nên thấy TỊCH DIỆT NIẾT BÀN cầu mong chứng đắc.
Nhìn qua cái nhìn pháp nhãn của Thanh văn là thế. Nhận biết thật tướng vạn pháp không sanh diệt, cho nên biết vạn pháp THƯỜNG.
Vì biết vạn pháp THƯỜNG, cho nên có CHƠN LẠC.
Vì biết vạn pháp CHƠN THƯỜNG, CHƠN LẠC, cho nên có CHƠN NGÃ.
Vì biết vạn pháp CHƠN THƯỜNG, CHƠN LẠC, CHƠN NGÃ, cho nên có CHƠN TỊNH.
Với tuệ nhãn của Bồ Tát thì vạn pháp CHƠN THƯỜNG, CHƠN LẠC, CHƠN NGÃ, CHƠN TỊNH. Nhìn vạn pháp CHƠN THƯỜNG, CHƠN LẠC, CHƠN NGÃ, CHƠN TỊNH thì NIẾT BÀN TỊCH DIỆT còn dùng vào đâu mà cầu mong “chứng” với “đắc”.
Nhằm xiển dương “thật tướng vô tướng” của các pháp, Bồ Tát Duy Ma Cật tung đòn “đối trị tất đàn” để khủng bố tư tưởng tiểu thừa của Ông Ca Chiên Diên “Các pháp không sanh không diệt là VÔ THƯỜNG”.
“Ngũ uẩn giai không là KHỔ”
VII.- VẤN ĐỀ THIÊN NHÃN
Đức Phật gọi Ông A Na Luật bảo: “A Na Luật! Thầy hãy đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật”. Ông A Na Luật thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật. Bởi vì con nhớ một hôm nọ, con đang kinh hành, bấy giờ có vị Phạm Vương tên là Nghiêm Tịnh và hàng ngàn PhạmVương khác phóng hào quang đến chỗ con, dập đầu làm lễ và hỏi con rằng:
- Thưa Ngài A Na Luật! Thiên nhãn Ngài chứng được có thể quan sát thấy được bao xa?
Bạch Thế Tôn! Con trả lời với Phạm Thiên Vương rằng: “Thiên nhãn của tôi trông thấy cõi Tam thiên Đại thiên thế giới của đức Phật Thích Ca như xem trái quít để trên bàn tay”. Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ Trưởng giả Duy Ma Cật đến hỏi con: Thưa Ngài A Na Luật! Thiên nhãn của Ngài khi thấy có khởi tướng tác ý hay
không có tác ý? Giả sử có khởi tướng tác ý thì giống như cái thấy của bọn người ngoại
đạo được ngũ thông. Còn như không khởûi tướng tác ý là vô vi, lẽ ra không có thấy.
Bạch Thế Tôn! Lúc đó con chẳng biết nói gì, đành im lặng. Các Phạm Thiên thì
được sự khinh an chưa từng có. Họ bèn làm lễ Ông Duy Ma Cật và hỏi:
- Thưa Trưởng giả! Trên đời nầy có ai là người được chơn thiên nhãn? Ông Duy Ma Cật đáp: Chỉ có Phật Thế Tôn là người được chơn thiên nhãn,
thường ở trong chánh định và thấy tất cả cõi nước chư Phật không có tướng hai.
Bấy giờ Nghiêm Tịnh Phạm Vương và năm trăm Phạm Thiên Vương quyến thuộc đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tất cả lễ lạy dưới chân Ông Duy Ma Cật và thoạt nhiên biến mất. Vì duyên cớ đó, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật.
TRỰC CHỈ
“Nhục nhãn ngại phi thông Thiên nhãn thông phi ngại Pháp nhãn quan nhất thể Tuệ nhãn liễu tri không Phật nhãn thể dụng đồng”.
Thiên nhãn của Ngài A Na Luật do tu chứng. Thiên nhãn của các Phạm Vương do quả báo. Thiên nhãn của Chư Thiên do “báo đắc”, xử dụng tự nhiên, không cần tác tướng. Thiên nhãn của Ngài A Na Luật do “chứng đắc”, khi xử dụng có tác tướng. Tác tướng tức là khởi ý dụng công. Dù báo đắc hay chứng đắc, thiên nhãn vẫn là thiên nhãn. Biết rộng là tối cần, thấy xa chưa quan trọng Thấy để mà thấy. Dù thấy gần thấy xa cũng vậy thôi. Thấy và biết toàn diện, thấy biết tận nguồn gốc vạn pháp, đó là CHƠN THIÊN NHÃN. Với CHƠN THIÊN NHÃN nhìn pháp giới “bất nhị” không có tướng hai. “Cần phải tu học, nhìn pháp giới không có tướng hai” ấy. Đem thiên nhãn “chứng đắc” so sánh với thiên nhãn “báo đắc” rốt cuộc chỉ là hý luận.
Mừng rằng mình được thiên nhãn! Hãy coi chừng! Ngày trở thành ngoại đạo tà kiến không xa.
VIII.- GIẢNG LUẬT
Đức Phật gọi Ông Ưu Ba Ly bảo: “Ưu Ba Ly! Thầy hãy đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật”. Ông Ưu Ba Ly thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông Duy Ma Cật.
Bạch Thế Tôn! Còn nhớ một lần nọ có hai vị Tỳ Kheo lỡ phạm luật hạnh, họ lấy làm xấu hổ không dám đem việc ấy ra thưa với Phật mà đến hỏi con rằng: Thưa Ngài Ưu Ba Ly! Hai chúng tôi đã lỡ phạm luật hạnh, chúng tôi lấy làm xấu hổ, không dám đến thưa với Phật. Vậy xin Ngài hãy chỉ giáo cho chúng tôi phải làm gì để xóa hết được cái lỗi ấy. Bạch Thế Tôn! Ông Ưu Ba Ly thưa. Con liền như Luật mà giải đáp rằng: Tứ khí thì tẩn xuất. Tội tăng tàn thì bất cộng trú…
Bấy giờ Ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: Thưa Ngài Ưu Ba Ly! Ngài đừng làm tăng tội cho hai vị Tỳ Kheo kia. Hãy dừng ngay cách phán xử luật nghi của Ngài đi! Thưa Ngài Ưu Ba Ly! Tánh của tội không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Đức Phật đã từng dạy: Tâm cấu cho nên chúng sanh cấu. Tâm tịnh thì chúng sanh tịnh. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Tâm vốn đã NHƯ, tội cấu cũng NHƯ và các pháp cũng NHƯ. Tất cả không vượt ngoài tánh NHƯ. Cũng như Ngài trong khi Ngài xử dụng cái tướng của tâm giải thoát, vậy lúc đó tâm Ngài còn có cấu không?
- Không. Bạch Thế Tôn! Con đáp như thế. Ông Duy Ma Cật giảng tiếp: “Tâm của tất cả chúng sanh cũng giống như vậy, vốn
không có tướng cấu. Vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh.
Thưa Ngài Ưu Ba Ly! Tất cả pháp sanh diệt cũng dừng, như huyễn hóa, như điện chớp không có chờ nhau, cho đến trong một niệm cũng không có trụ. Các pháp đều do vọng thấy như chiêm bao, như ngấn nước giữa cơn nắng gắt, như trăng đáy nước, như bóng trong gương. Tất cả đều do vọng tưởng sanh ra. Người nào biết kỹ những việc đó mới là người trì luật chơn chánh. Người nào hiểu rõ những điều đó mới là người luận giải luật đúng ý Phật. Bạch Thế Tôn! Ông Ưu Ba Ly thưa. Sau giây phút lãnh hội pháp ngữ hùng hồn siêu việt của Ông Duy Ma Cật, hai vị Tỳ Kheo bèn tán thán: Ôi! thượng trí thay! Ngài Ưu Ba Ly không bằng được. Đấy mới là người trì luật tối thượng. Đấy mới là người luận giải luật đệ nhất. Tuyệt diệu thay! Không còn ngôn từ tán thán cho vừa.
Bạch Thế Tôn! Ông Ưu Ba Ly thưa. Lúc đó con cũng cảm kích và xúc động. Con nghĩ rằng: Ngoài đức Như Lai ra, chưa có một vị Thanh Văn, Bồ Tát nào có biện tài lạc thuyết vô ngại của một bậc trí tuệ thông đạt tuyệt luân như vậy.
Bạch Thế Tôn! Khi bấy giờ hai vị Tỳ Kheo kia dứt trừ mọi hoang mang sợ sệt và dõng mãnh phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì duyên cớ đó, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh Ông Duy Ma Cật.
TRỰC CHỈ
định.
Tội lỗi không có tánh cố định. Cũng như phiền não vô minh không có tánh cố
Lỡ làm sai, biết là sai thì tội đã tự giãm khinh. Biết tội sanh tâm hổ thẹn, tội đó
phải được xem như hết. “Tội tánh bổn không”. Tội không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Tâm tạo tội cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. “Tội tòng tâm khởi tòng tâm diệt”. Tâm cũng NHƯ. Tội cũng NHƯ. Vạn pháp cũng NHƯ. Giải thoát cũng NHƯ.
Tìm tâm trong ba thời, không có: Tâm NHƯ. Tìm tội trong ba thời, không có: Tội NHƯ.
Tìm pháp trong ba thời, không trụ: Pháp NHƯ.
Tìm tướng giải thoát trong ba thời, không có: Giải thoát NHƯ. NHƯ tức là NHƯ NHƯ, cũng tức CHƠN NHƯ. Muốn đánh đổ phá hoại, không phá
hoại được. Muốn xây dựng bồi bổ, không bồi bổ được. NHƯ là tánh viên mãn tự nhiên, tánh ly ngôn thuyết. Tất cả pháp sanh diệt không dừng, như huyễn như hóa. Tội cấu cũng như vậy. Không linh hoạt trong nguyên tắc: KHAI, TRÌ, GIÁ, PHẠM vô tình tăng tội cho người thêm nặng.
IX.- VẤN ĐỀ XUẤT GIA
Bấy giờ đức Thế Tôn gọi La hầu La bảo: “La Hầu La! Thầy nên đi thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật”. Ông La Hầu La thưa: “BạchThế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả! Bởi vì trước đây có lần các trưởng giả tử trong thành Tỳ Da Ly đến chỗ con, cúi đầu làm lễ và hỏi con rằng: Thưa Ngài La Hầu La! Ngài là con của Phật, Ngài bỏ địa vị chuyển luân thánh vương đi xuất gia hành đạo. Vậy xin hỏi việc hỏi, việc xuất gia đó có được lợi ích gì? Bạch Thế Tôn! Con vì các trưởng giả tử, nói rõ những cái lợi và công đức của việc xuất gia. Bấy giờ Ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng:
1.- Thưa Ngài La Hầu La! Ngài không nên nói về cái lợi và cũng không nên nói về công đức của việc xuất gia. Vì sao? Bởi vì không có lợi, không có công đức mới xuất gia. Bởi vì xuất gia thuộc về pháp vô vi. Pháp vô vi không có lợi và có công đức.
Thưa Ngài La Hầu La! Luận về xuất gia là không kia, không đây. Không có cái giữa. Rời sáu mươi hai thứ kiến chấp mà ở chỗ Niết Bàn. Là việc của người trí cảm nhận, bậc thánh thường hành. Hàng phục các ma. Cứu độ ngũ đạo.Thanh tịnh ngũ nhãn. Thành tựu ngũ lực. Làm chủ ngũ căn. Không não hại người. Xa lìa xấu ác. Dẹp các ngoại đạo. Vượt khỏi các giã danh. Ra khỏi bùn lầy phiền não. Không có người buộc. Không có ngã sở hữu. Không có cái sở thọ. Lòng không khát vọng. Giữ ý an vui. Thuận theo thiền định. Xa rời các lỗi lầm. Nếu được như thế, chính là chơn xuất gia. Tiếp theo Ông Duy Ma Cật nói với các trưởng giả tử:
2.- “Các vị hãy ở trong chánh pháp và nên xuất gia trong chánh pháp. Bởi vì người sanh ra trong đời gặp được Phật rất là khó”. Các trưởng giả tử nói:
- Thưa cư sĩ! Chúng tôi nghe Phật nói rằng, nếu cha mẹ không cho thì không được xuất gia.
Đúng vậy! Ông Duy Ma Cật đáp: Nhưng các trưởng giả tử đừng lo! Khi nào các vị phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác thì chính lúc đó được xem như xuất gia rồi và đã thọ giới cụ túc rồi! Khi bấy giờ có 32 vị trưởng giả phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ ấy, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh!”.
TRỰC CHỈ
Xuất gia mục đích không phải vì lợi, cũng không phải vì công đức.
Lợi và công đức, chỉ để nói với người có trí bậc hạ và bậc trung. Bậc thượng trí vừa nghe, đã biết sai từ căn bản.
1.- Xuất gia là ra khỏi nhà tam giới, nhà phiền não, tham, sân, si, mạn. Mục-đích tối hậu là đến bảo sở Bồ Đề, Niết Bàn vô thượng.
Xuất gia là pháp vô vi. Không được nói lợi, không được đề cập công đức. Xuất gia là việc của người trí cảm nhận, của bậc Thánh thường hành.
2.- Xuất gia là quí. Phải xuất gia theo chánh pháp, sống đúng chánh pháp. Đó là: “Thân xuất gia, tâm xuất gia”.
Xuấtgia đúng chánh pháp, sống không đúng chánh pháp. Đó là: “Thân xuất gia, tâm không xuất gia”.
Các trưởng giả tử chưa có điều kiện xuất gia hãy phát tâm cầu vô thượng Bồ Đề. Kể từ phút phát tâm, xem như xuất gia rồi, thọ cụ túc giới rồi. Đó là:
“Tâm xuất gia, thân không xuất gia”.
X.- NHƯ LAI BỆNH
Đức Phật gọi Ông A Nan và bảo: “A Nan! Thầy hãy đi thăm bệnh Trưởng giả
Duy Ma Cật!”.
1.- Ông A Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả. Bởi vì trước đây, có lần Như Lai trong người hơi có chút bệnh, phải cần dùng sữa. Con mang bình bát đến đứng trước nhà của một đại Bà LaMôn để xin. Bấy giờ, Trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng:
- Thưa Ngài ANan! Ngài làm gì mang bình bát đến đứng ở đây sớm thế? Con đáp rằng:
- Như Lai trong người hơi có bệnh, cần phải dùng sữa, tôi đến đây hóa duyên xin sữa cho Như Lai.
Ông Duy Ma Cật nói:
- Thôi! Thôi! A Nan! Ngài đừng nói như vậy. Thân Như Lai là thân Kim Cang, các xấu ác đã hết, chứa nhóm tất cả công đức thiện, nào có bệnh tật, não hại gì?
Hãy im! và đi đi! Ngài nói như vậy là phỉ báng Như Lai đó. Đừng để cho người ngoài họ nghe được những lời bất kính đó! Đừng để cho các hàng chư Thiên đại oai đức và các Bồ Tát ở các cõi Tịnh độ khác nghe được những lời ấy!
2.- Thưa Ngài A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương chỉ có phước đức chút ít mà còn không bệnh, huống chi Như Lai là thân Kim Cang hội tụ vô lượng phước đức!
Hãy đi đi, Ngài A Nan! Đừng để chúng tôi phải chịu sự xấu hổ đó! Hàng ngoại
đạo Phạm Chí họ nghe được những điều đó, họ sẽ nghĩ gì về một bậc thầy của chúng ta!
Bản thân một vị thầy có bệnh mà không thể tự cứu thì làm sao cứu bệnh cho ai? Ngài hãy âm thầm đi nhanh đi. Đừng để lộ ra cho người ngoài nghe biết!
A Nan! Ngài nên biết rằng: Thân của Như Lai là pháp thân, không phải thân do tư dục. Phật là bậc Thế Tôn vượt ngoài tam giới. Thân Phật vô lậu, vì các lậu đã hết. Thân Phật vô vi, không đối đải với các số. Thân như thế thì còn có bệnh gì?
- Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Lúc đó con rất là xấu hổ. Nghĩ rằng con được hầu bên Phật há lại nghe lầm ư? Liền đùó, con tư ïnghe có tiếng trong không trung vọng đến: A Nan! Lời cư sĩ như thế là đúng, nhưng vì Phật xuất hiện trong đời ngũ trược ác thế thị hiện ra việc làm như vậy nhằm hoá độ chúng sanh. A Nan! Ông hãy đi xin sữa, đừng có hổ thẹn!
Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Ông Duy Ma Cật có sức trí tuệ biện tài vô ngại như thế, con không dám lãnh trách nhiệm đến thăm bệnh.
Ngoài mười vị đại đệ tử Thanh Văn này, còn có năm trăm vị nữa ở trước Phật đến trình bày duyên cớ đã từng gặp Ông Duy Ma Cật trước kia.
Tất cả đồng xưng tán Trưởng giả Duy Ma Cật và đồng thưa lên Phật, rằng không dám đi thăm bệnh.
TRỰC CHỈ
tướng.
1.- Người Thanh Văn xử dụng “pháp nhãn” nhìn vạn pháp chỉ thấy được pháp
Bồ Tát nhìn vạn pháp bằng “tuệ nhãn”, biết suốt căn nguyên, thấy tột pháp tánh. Nhìn pháp chỉ thấy “pháp tướng” thì nhìn Phật chỉ thấy “Phật tướng”.
Thấy “Phật tướng” thì rõ ràng Phật có bệnh, Ông A Nan đi xin sữa là phải.
Nếu chỉ biết có “Phật tướng”, tu sĩ dễ lạc “tà đạo” không biết được Như Lai Phật.
2.- Phải thâm nhập ngộ pháp tánh, mới nhận thức rõ pháp thân. Pháp thân Phật là “bản thể ”của ứng thân Phật.
Ứng thân Phật là “tướng dụng” của pháp thân.
Pháp thân biến nhất thiết xứ. Là thể bất sanh, bất diệt, vô thỉ, vô chung. Nhìn bằng tuệ nhãn sẽ thấy pháp thân Phật không hề có bệnh.
Phải hiểu Phật qua pháp thân mới thật hiểu Phật.
Ứng hóa thân chỉ là công cụ phương tiện của Như Lai.
Nói là: “tiếng vọng trong không trung” người trí phải hiểu đó là “tiếng lòng” phản
tỉnh của Ông A Nan qua những giây phút tiếp thu hơi ấm lửa Đại thừa. Người khơi dậy ngọn lửa trong đống tro tàn là Ông Duy Ma Cật.
Trở về với “pháp tướng” nhớ “Phật tướng” ở tịnh xá mà Ông A Nan phải tiếp tục
đi xin sữa cho Phật dùng!
Trang: 1 2 3 4