Pháp Sư Từ Thông
TỰA
Bộ kinh nầy tiền bối cổ kim từ các thời đại Tống, Minh xa xưa ở Trung Quốc và qua bao thế hệ lịch sử ở Việt nam ta đều tiếp nhận danh xưng của bộ kinh nầy qua nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LIỄU NGHĨA KINH. Với nhan đề đó, nói lên tánh chất trọng đại trong trọng đại ở nội dung và giáo nghĩa thậm thâm vi diệu của kinh. Thực lý
mà nói, văn tự có tuyệt xảo thế nào cũng không chở hết được ý. Người xưa nói: Ý tại ngôn ngoại. Phật thì nói: “Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Văn tự, giáo lý của tất cả kinh tạng ví như ngón tay chỉ trăng. Và lại theo lời Phật dạy cho Bồ tát Hiền Thiện Thủ thì kinh nầy có thể gọi bằng những năm danh tự khác nhau. Mà danh tự nào, ý nghĩa cũng hun
hút chiều sâu như vực thẳm.
mà nói, văn tự có tuyệt xảo thế nào cũng không chở hết được ý. Người xưa nói: Ý tại ngôn ngoại. Phật thì nói: “Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Văn tự, giáo lý của tất cả kinh tạng ví như ngón tay chỉ trăng. Và lại theo lời Phật dạy cho Bồ tát Hiền Thiện Thủ thì kinh nầy có thể gọi bằng những năm danh tự khác nhau. Mà danh tự nào, ý nghĩa cũng hun
hút chiều sâu như vực thẳm.
Khi dịch và viết phần Trực chỉ bộ kinh nầy, tôi suy nghĩ rất nhiều về cái đề kinh. Theo cổ nhơn gọi tắt với cái tên: VIÊN GIÁC KINH, tôi thấy không vừa lòng. Dùng nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA KINH tôi cho là quá dài mà cũng không hẳn đủ đảm bảo nội dung của kinh trong đó. Qua quá trình tư duy dai dẳn tôi vụt nhớ hai câu thơ của một thiền sư Việt nam:
“Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”.
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”.
Lời cổ vũ sấm rang đó, tôi khởi ý quyết định “chiết trung” hai nhan đề một dài và một ngắn ấy, thành: NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH. Đó làcái nhan đề mà tôi dâng trọn tâm hồn lên đức Phật để xin được đặt ra.
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH là một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Liễu nghĩa Đại thừa. Ơ kinh nầy, đức Phật khai thị về tự tánh VIÊN GIÁC của mọi người. Rằng con người ai cũng sẵn có cái tánh giác ngộ viên mãn thanh tịnh không có tội lỗi nhiễm ô. Dù ở Thánh tánh đó không thêm, ở phàm cũng không bị hao bớt. Chúng sanh hiện hữu trên cõi đời nầy chỉ là diệu dụng tùy duyên vốn sanh khởi từ bản thể tự tánh VIÊN GIÁC bất biến ấy. Vì vậy, cho nên gọi là NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
Tu học theo kinh Như Lai Viên Giác hành giả sẽ hiểu rõ về giáo lý:
Đốn tu đốn ngộ Tiệm tu tiệm ngộ Đốn ngộ tiệm tu Đốn tu tiệm ngộ
“Đốn” “Tiệm” là phạm trù đối đãi về mặt thời gian. “Tu” “Ngộ” là phạm
trù đối đãi về mặt nhân quả. Có tu thì có ngộ. Có ngộ thì có chứng đắc quả vị. Đó là chân lý về nhân quả. Chân lý nhân quả không riêng gì phương tiện tu chứng mà nó bao quát hết thảy sự vật hiện tượng thế gian và pháp xuất thế gian, ngoại trừ thân chứng cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
“Đốn” “Tiệm” là phạm trù đối đãi về mặt thời gian. “Tu” “Ngộ” là phạm
trù đối đãi về mặt nhân quả. Có tu thì có ngộ. Có ngộ thì có chứng đắc quả vị. Đó là chân lý về nhân quả. Chân lý nhân quả không riêng gì phương tiện tu chứng mà nó bao quát hết thảy sự vật hiện tượng thế gian và pháp xuất thế gian, ngoại trừ thân chứng cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
Đáp câu hỏi của Bồ tát Văn Thù về pháp hành của Như Lai khi tu nhơn địa. Phật dạy: PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA LÀ SỬ DỤNG TRÍ VIÊN GIÁC QUÁN CHIẾU LÝ VIÊN GIÁC. VÌ VẬY KHÔNG SANH KHỞI VÔ MINH GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO. Qua lời dạy đó, người đệ tử Phật thấy rằng: Khi tu nhơn, đức Phật chỉ sử dụng chân trí soi rọi chân lý. Đức Phật không có làm gì cực nhọc khó khăn. Lấy chân trí trong sáng tỉnh thức quán chiếu chân lý vốn thanh tịnh bản nhiên, do vậy, vô minh không có điều kiện sanh khởi. Mà không có vô minh thì không phải chúng sanh. Không phải chúng sanh thì gọi là Phật, là thành Phật đạo !
Giáo lý đốn tu, đốn ngộ, đốn chứng được Thế Tôn khai thị cho Bồ tát Đại
Trí Văn Thù ở chương một của bộ kinh nầy.
Trí Văn Thù ở chương một của bộ kinh nầy.
TRI HUYỄN TỨC LY, LY HUYỄN TỨC GIÁC đức Phật dạy cho Bồ tát Phổ Hiền ở chương hai Như Lai vẫn chưa mở bày phương tiện, vì ý Phật muốn cho những người có chủng tánh Đại thừa cần phải hứng khởi ý chí quyết liệt, như người bừng tỉnh một cơn ác mộng. Người biết mộng là người đã tỉnh thức rồi.
Dạy về pháp ĐỐN NGỘ ĐỐN TU ở chương một, đức Phật khai thị cho Bồ tát Đại Trí Văn Thù về công năng tu tập qua một chữ TRI. Ơ chương hai Phật khai thị về công dụng của chữ LY do Bồ tát Phổ Hiền nêu ra cũng nhằm để hướng dẫn pháp hành ĐỐN TU ĐỐN NGỘ và ĐỐN CHỨNG.
Nếu chưa phải là bậc lợi căn đại trí thì cầu học những phương tiện “Tiệm tu”. với pháp tiệm tu, hành giả có thể thực hành tu tập những pháp môn ngang với nghị lực và nhận thức của mình. “Tiệm” có nghĩa là dần dần, từ thấp tới cao, từ chậm đến mau trên đường tu, ngộ. Tuy nhiên, hành giả không để lệch mục tiêu là VIÊN GIÁC TỰ TÁNH vốn có của mình. Rời mục tiêu ấy mà cầu mong chứng ngộ Bồ đề Niết bàn… chẳng khác nào mò trăng đáy nước, nấu cát hy vọng thành cơm, chờ hoa đốm trong hư vô sanh ra quả ngọt…
CHỈ, QUÁN và THIỀN là ba pháp hành căn bản trong nền giáo lý Phật. Nó được ứng dụng xuyên suốt không gian và thời gian đối với người đệ tử Phật phát chí tu hành, và cũng từ căn bản đó vận dụng triển khai thành “vô lượng pháp môn tu” ! Ví như xi măng, cát, đá, sắt và nước là chất liệu cơ bản của ngành kiến trúc vậy.
Sự chấp mắc sai lầm chân lý đối với đường tu, nó trở thành vật cản, chặn đứng sự tiến lên đỉnh cao Bồ đề Niết bàn Phật. CHỨNG, NGỘ, LIỄU, GIÁC là sự chấp mắc sai lầm về “bản ngã”. Không tỏ ngộ chân lý “ngã không”, con người rất khó dứt ý tưởng “ngã chấp câu sanh”. Dứt câu sanh ngã chấp khó, ví như người tự cắt đầu mình !
TÁC, NHẬM, CHỈ, DIỆT cũng là thứ bệnh chấp sai lầm từ nhận thức, dẫn đến chủ trương lệch lạc chánh nhân. Nhân đã lầm thì quả sẽ lạc, khiến cho VIÊN GIÁC DIỆU TÁNH không còn là mục tiêu hướng thiện hâm hở của lúc khởi hành ! Hãy thận trọng lưu tâm !
“Đại hải bất nhượng tiểu lưu”. Là biển cả thì không ngại dung chứa nước sông ngòi khe lạch. NHƯ LAI VIÊN GIÁC kinh là tư tưởng Liễu nghĩa Thượng thừa, mà bậc đại căn cơ hay trung lưu tiểu trí, học tu đều đem lại lợi ích thích ứng với CHÍ, NGUYỆN, HÀNH của mỗi người.
Vì nội dung tư tưởng thậm thâm vô thượng, vì tánh chất Đại Phương
Quảng Liễu Nghĩa của kinh mà tiền bối hậu triết dị khẩu đồng tâm mỗi
mỗi triển khai và ghi lại những điều tâm đắc của mình. Suốt quá trình Phật sử ở Trung Quốc, kinh Viên Giác được những nhà Phật học sớ giải, chú thích, trước thuật, biên soạn gồm có những tên gọi:
Quảng Liễu Nghĩa của kinh mà tiền bối hậu triết dị khẩu đồng tâm mỗi
mỗi triển khai và ghi lại những điều tâm đắc của mình. Suốt quá trình Phật sử ở Trung Quốc, kinh Viên Giác được những nhà Phật học sớ giải, chú thích, trước thuật, biên soạn gồm có những tên gọi:
• Viên Giác Kinh Lược Sớ. Đời Đường, ngài Tông Mật sớ, phân thành 4 quyển.
• Viên Giác Kinh Đại Sớ, Sớ Sao cũng do ngài Tông Mật sớ sao phân thành 3 quyển
• Viên Giác Kinh Sao Biện Nghi Ngộ. Đời Tống, ngài Quang
Phục biên soạn phân thành 2 quyển.
Phục biên soạn phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Sớ Sao Tùy Văn Yếu Giải. Đời Tống, ngài
Thanh Viên soạn thuật phân thành 12 quyển
Thanh Viên soạn thuật phân thành 12 quyển
• Viên Giác Kinh Ngự Chú. Đời Tống, Hiếu Tông Hoàng Đế chú giải phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Loại Giải. Đời Tống, ngài Hạnh Đình giải phân thành 8 quyển.
• Viên Giác Kinh Lược Sớ Tự Chú. Đời Tống, ngài Như Sơn chú 1 quyển
• Viên Giác Kinh Tâm cảnh. Đời Tống, ngài Trí Thông thuật phân thành 6 quyển.
• Viên Giác Kinh Tập Chú. Đời Tống, ngài Nguyên Túy thuật phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Hiệp Tụng Tập Giải Giảng Nghĩa. Đời Tống, ngài Chu Kỳ soạn thuật phân thành 12 quyển
• Viên Giác Kinh Trực Giải. Đời Minh, ngài Đức Thanh soạn thuật phân thành 6 quyển
• Viên Giác Kinh Yếu Giải. Đời Minh, ngài Tịnh Chánh giải phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Cú Thích Chánh Bạch. Ngài Hoằng Lệ trước thuật phân thành 6 quyển.
• Viên Giác Kinh Liên Châu. Ngài Tịnh Định trước thuật 1
quyển.
quyển.
• Viên Giác Kinh Tịnh Nghĩa Sớ. Ngài Thông Lý trước thuật phân thành 4 quyển
• Viên Giác Kinh Giải Nghĩa. Ngài Đế Nhàn diễn giải phân thành 2 quyển
Đó là những vị tiền bối có quyết tâm đầu tư trí tuệ khai thác nguồn tài nguyên tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa ở kinh Viên Giác
Ơ Việt nam ta, cũng đã có một vài bản dịch từ Hán văn ra Việt văn, nhưng vì thiếu vốn đầu tư, và không vận dụng khả năng sáng tạo. Vì vậy công dụng của kinh Viên Giác vẫn còn mai một chưa có cơ hội phát huy, bởi phẩm chất chưa đáp ứng thị trường đối với người muốn tìm học Phật pháp.
Nay với nhan đề NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH TRỰC CHỈ ĐỀ
CƯƠNG, với khả năng của mình, tôi viết ra phần TRỰC CHỈ để chỉ
thẳng trọng tâm, hướng dẫn người đọc nắm được ý chính, nhận thức nghĩa lý tiềm ẩn ở văn kinh ý Phật. Đó là lý tưởng của bỉ nhân tôi đối với công trình biên soạn dịch thuật bộ kinh nầy. Tuy nhiên, sức đầu tư rất hữu hạn mà tài nguyên liễu nghĩa thượng thừa thì vô tận bao la, cho nên hy vọng có được chút lợi ích nào cho người đọc cũng đáng mừng rồi.
CƯƠNG, với khả năng của mình, tôi viết ra phần TRỰC CHỈ để chỉ
thẳng trọng tâm, hướng dẫn người đọc nắm được ý chính, nhận thức nghĩa lý tiềm ẩn ở văn kinh ý Phật. Đó là lý tưởng của bỉ nhân tôi đối với công trình biên soạn dịch thuật bộ kinh nầy. Tuy nhiên, sức đầu tư rất hữu hạn mà tài nguyên liễu nghĩa thượng thừa thì vô tận bao la, cho nên hy vọng có được chút lợi ích nào cho người đọc cũng đáng mừng rồi.
Cổ nhân nói: “Chí lạc mạc như đọc thơ, chí yếu mạc như giáo tử”. Không có thú vui nào bằng thú vui đọc sách. Không có sự bí yếu nào bằng cái bí yếu đem dạy cho con.
Đọc sách đã là vui, đọc kinh Phật đối với người Phật tử có lẽ không đến nỗi buồn ! Mong thay !
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT Sài gòn, ngày 20 – 11 – 1992
Pháp sư : THÍCH TỪ THÔNG
Kính đề.
Pháp sư : THÍCH TỪ THÔNG
Kính đề.
LỜI CÁO BẠCH (trang 13)
Bộ kinh NHƯ LAI VIÊN GIÁC các tiền bối cổ kim có lẽ vì y theo khuôn sáo trước mà các Ngài thường phân chia thành nhiều quyển từ 2, 3,
4, 5 hay nhiều hơn thế nữa. Riêng tôi, tôi nhận thấy sự phân chia ấy không đem lại hiệu quả gì, mà chỉ thêm phần hình thức rườm rà vô bổ. Sự kiện then chốt của toàn kinh là mười hai vị Bồ tát thay mặt Viên Giác Hải Hội nêu lên những câu hỏi để cầu Phật chỉ dạy. Y nghĩa nội dung những câu hỏi có thể thu nhiếp trong hai mục đích yêu cầu:
4, 5 hay nhiều hơn thế nữa. Riêng tôi, tôi nhận thấy sự phân chia ấy không đem lại hiệu quả gì, mà chỉ thêm phần hình thức rườm rà vô bổ. Sự kiện then chốt của toàn kinh là mười hai vị Bồ tát thay mặt Viên Giác Hải Hội nêu lên những câu hỏi để cầu Phật chỉ dạy. Y nghĩa nội dung những câu hỏi có thể thu nhiếp trong hai mục đích yêu cầu:
1. Học phương pháp tu mà đức Phật và thập phương chư Phật đã tu và được thành Phật.
2. Cầu Phật giải phẫu chứng bệnh “chấp” và bệnh “nghi” và cầu Phật chỉ dạy phương pháp ngăn ngừa các chứng bệnh đó cho Bồ tát và chúng sanh tu hành hậu thế.
Hai mục đích yêu cầu xuyên qua mười hai đề tài nghi vấn của mười hai vị đại Bồ tát, được Phật khai thị cặn kẽ rõ ràng, khiến cho trình độ tiếp thu chánh pháp của thính chúng được nâng cao liên tục. Với nhận xét đó, tôi thấy sự phân chia ra nhiều quyển, không cần, cho nên tôi chỉ rút một câu hoặc những từ có ý nghĩa then chốt, trọng tâm của đề tài được Phật khai thị, tôi đặt thành “Tiểu đề” của đề tài đó. Và mỗi đề tài nghi vấn của một Bồ tát, tôi kể đó là một chương. Ví dụ:
Chương Một
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA.
Chương Hai
LY HUYỄN TỨC GIÁC GIÁC TỨC THÀNH PHẬT…
Như vậy trọn bộ kinh nầy có tất cả 12 chương, mà không phân chia số quyển. Mong sao người đọc nhận ý quên lời để giảm nhẹ bệnh hình thức, câu nệ khuôn sáo biến kế danh ngôn.
“Nhất thiết tu đa la giáo
Như tiêu nguyệt chỉ”.
Như tiêu nguyệt chỉ”.
Lại có thơ rằng:
“Không môn bất khẳng xuất
Đầu song giả tự si Bách niên toàn cố chỉ Hà nhật xuất đầu thì”.
Đầu song giả tự si Bách niên toàn cố chỉ Hà nhật xuất đầu thì”.
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG Kính cáo.
PHÀM LỆ
Bộ kinh NHƯ LAI VIÊN GIÁC gồm cả thảy 12 chương, khi nghiên cứu kinh nầy kính mong độc giả lưu ý:
1. Phần nguyên văn kinh được in chữ đứng, đó là phần dịch từ kinh
Hán tự ra Việt văn.
Hán tự ra Việt văn.
2. Phần trực chỉ in chữ nghiêng để cho dễ phân biệt. Phần nầy do bỉ nhân tôi đóng góp viết ra những điều tâm đắc bằng kiến giải của riêng mình. Hy vọng phần trực chỉ sẽ giúp cho độc giả manh mối để tư duy, gợi trí nhận xét trong tiến trình tìm hiểu học tu theo con đường Phật.
3. Đoạn kinh có nhiều ý, tôi đánh số 1, 2, 3, v.v… Đoạn có đánh số là có tiềm ẩn ý nghĩa sâu xa. Tôi phân tích và triển khai phần tiềm ẩn đó trong phần TRỰC CHỈ sau chương đó.
4. Ở phần TRỰC CHỈ cũng được đánh số 1, 2, 3, v.v… Số ở phần nầy ứng hợp với số ở phần kinh văn trên. Ví dụ: số 2 ở phần TRỰC CHỈ diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn số 2 ở phần kinh
văn. Ngược lại, ở phần kinh văn thấy có đánh số 2 tức là đã có diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn kinh đó ở sau chương trong phần TRỰC CHỈ.
văn. Ngược lại, ở phần kinh văn thấy có đánh số 2 tức là đã có diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn kinh đó ở sau chương trong phần TRỰC CHỈ.
Mấy lời kính cáo, mong độc giả lưu tâm. Ngày nào chúng ta còn sống là còn phải học
“HỌC, HỌC NỮA VÀ HỌC MÃI”.
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG Cẩn bạch.
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG Cẩn bạch.
CHƯƠNG MỘT
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA
1. Kinh này tôi nghe một thuở nọ đức Phật trụ trong chánh định Đại Quang Minh Tàng. Bấy giờ, thân tâm Như Lai vắng lặng, bình đẳng như hư vô, tùy thuận cảnh giới bất nhị. Các cõi nước thanh tịnh đồng thời hiển hiện trong bối cảnh trang nghiêm ấy và có cả mười van đại Bồ tát vân tập thành một hải hội đông vầy. Những bậc thượng thủ trong hàng Bồ tát gồm có:
Bồ tát Đại Trí Văn Thù. Bồ tát Phổ Hiền. Bồ Tát Phổ Nhãn. Bồ tát Kim Cang Tạng. Bồ tát Di Lặc. Bồ tát Thanh Tịnh Tuệ. Bồ tát Uy Đức Tự Tại. Bồ tát Biện Am. Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng. Bồ tát Phổ Giác. Bồ tát Viên Giác. Bồ tát Hiền Thiện Thủ cùng các quyến thuộc đồng nhập chánh định BẤT NHỊ.
Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đảnh lễ dưới chân Phật rồi đi quanh ba vòng, quỳ gối chấp tay thưa:
2. Bạch Thế Tôn ! Các hàng Bồ tát phát tâm thanh tịnh cầu học Đại thừa phải tu tập thế nào để tránh được các bệnh chấp và những chúng sanh hậu thế phải làm sao để khỏi rơi vào tà kiến ! Cúi mong Như Lai thương xót đại chúng trong hội nầy mà dạy cho chúng con về PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA từ lúc khởi đầu !
Đức Phật bảo: Văn Thù Sư Lợi ! Lời hỏi của ông rất có ý nghĩa. Ong vì các Bồ tát và chúng sanh đời sau mà hỏi về PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA. Đó là một vấn đề rất hệ trọng Như Lai sẽ vì các ông mà nói:
3. Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Đấng Vô Thượng Pháp Vương có pháp môn
Đại Tổng Trì tên VIÊN GIÁC. Từ VIÊN GIÁC lưu xuất chân như thanh tịnh, Bồ đề, Niết bàn. Các Ba La Mật môn để dạy cho Bồ tát đều lưu xuất từ VIÊN GIÁC ấy.
Đại Tổng Trì tên VIÊN GIÁC. Từ VIÊN GIÁC lưu xuất chân như thanh tịnh, Bồ đề, Niết bàn. Các Ba La Mật môn để dạy cho Bồ tát đều lưu xuất từ VIÊN GIÁC ấy.
Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA LÀ SỬ DỤNG QUÁN TRÍ VIÊN GIÁC SOI RỌI CHÂN LÝ VIÊN GIÁC, DO VẬY MÀ KHÔNG SANH KHỞI VÔ MINH GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO.
Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Các ông nên biết ! Vô minh vốn không là gì cả. Chỉ vì tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ quá nhiều điên đảo, ví như người mất trí nhận sai phương hướng, đông tây trái chỗ, nam bắc lộn tên; vọng nhận tứ đại cho là cái tướng tự thân, bóng dáng lục trần cho là cái tướng tự tâm. Thực chất họ như người bị bệnh mắt. Vì bệnh mắt mà thấy có vành trăng thứ hai bên mặt trăng duy nhất.
Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Hư không vốn không có hoa đốm, người bệnh mắt vọng nhận là có. Do vọng nhận cho nên không những hiểu sai về tự tánh của hư không mà còn lầm cho rằng hư không là chỗ sanh ra hoa đốm. Cũng như vậy, luân chuyển sanh tử chỉ là sự vọng nhận và vọng thấy
trong VIÊN GIÁC TÁNH thanh tịnh. Vì vậy, cho nên gọi đó là VÔ MINH.
trong VIÊN GIÁC TÁNH thanh tịnh. Vì vậy, cho nên gọi đó là VÔ MINH.
4. Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Vô minh không có thực thể. Chúng ví như sự việc trong mộng, khi mộng thì không phải không, lúc tỉnh thì chẳng có gì. Hoa đốm khi diệt mất trong hư không nhưng không thể nói có diệt, vì nó không có thật sanh. Cũng vậy, tất cả chúng sanh ở trong chỗ không sanh, vọng thấy có sanh, ở trong chỗ không diệt vọng thấy có diệt, thế cho nên gọi là luân chuyển sanh tử.
5. Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Nhơn Địa của Như Lai trong khi tu VIÊN GIÁC đại định thường vận dụng trí tuệ để BIẾT và BIẾT vô minh vốn không, không có thật tánh, chúng như hoa đốm có trong hư không. Do vậy, không còn lầm nhận về tướng thân tâm cho nên không thấy có tướng thân tâm thọ nhận sự luân chuyển sanh tử. Cái không ấy, không phải do gắng sức cố làm nó mới không mà tánh bản nhiên của nó tự không.
Tánh biết và tánh hư không, cũng như vậy. Biết mà giống như không biết, không lưu giữ về ý niệm biết chủ quan. Tánh hư không cũng không trụ chấp. Tánh biết và tánh không của hư không cả hai đều vắng lặng, bấy giờ gọi là người TÙY THUẬN GIÁC TÁNH THANH TỊNH.
Vì sao nói như thế ! Vì thực tánh của vạn pháp là không. Vì tánh của vạn pháp bất động, vì trong Như Lai tàng không có tướng đầu mối của sự sanh khởi và tướng chấm dứt của sự tận cùng. Vì không có cái tri kiến phân biệt xen vào. Vì tánh của pháp giới là chân như tròn đầy toàn diện, phổ biến mười phương.
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA là như
thế.
thế.
Bồ tát tu học Đại thừa nên phát tâm thanh tịnh như vậy. Chúng sanh đời sau theo đó mà tu sẽ không bị rởi vào tà kiến.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :
Văn Thù ông nên biết. Tất cả chư Như Lai Nhơn địa thuở ban đầu Đều dùng trí tuệ giác Nhận rõ các vô minh
Biết chúng như không hoa Mà được khỏi lưu chuyển Người mộng thấy việc mộng Khi tỉnh chẳng có gì
Thể Giác như hư không Bình đẳng không động chuyển Giác khắp mười phương cõi Gọi là thành Phật đạo
Các huyễn diệt không chỗ Thành Phật cũng không thành Vì tánh Giác viên mãn
Bồ tát nương nơi đây
Mà phát Bồ đề tâm Chúng sanh trong hậu thế Nương đây khỏi tà kiến.
Biết chúng như không hoa Mà được khỏi lưu chuyển Người mộng thấy việc mộng Khi tỉnh chẳng có gì
Thể Giác như hư không Bình đẳng không động chuyển Giác khắp mười phương cõi Gọi là thành Phật đạo
Các huyễn diệt không chỗ Thành Phật cũng không thành Vì tánh Giác viên mãn
Bồ tát nương nơi đây
Mà phát Bồ đề tâm Chúng sanh trong hậu thế Nương đây khỏi tà kiến.
TRỰC CHỈ
1. Qua nhận thức của Đại thừa thì Phật lúc nào cũng trụ trong thiền định chứ không phải lúc sắp nói kinh đức Phật mới trụ trong thiền định. Với mười tám pháp bất cọng của Phật chứng minh cho điều đó :
1. Thân không lỗi.
2. Khẩu không lỗi.
3. Ý không lỗi.
4. Không có tư tưởng kỳ thị.
5. Không có loạn tâm.
6. Không lưu giữ tri kiến.
7. Ý muốn độ sanh không giảm.
8. Chánh niêm không giảm.
9. Tuệ tâm không giảm.
10. Tinh tấn không giảm.
11. Xả ngã không giảm.
12. Xả pháp không giảm.
13. Thân hành động có trí tuệ.
14. Khẩu nói ra có trí tuệ.
15. Ý tư duy có trí tuệ.
16. Trí tuệ biết đúng về quá khứ.
17. Trí tuệ biết đúng ở hiện tại.
18. Trí tuệ biết đúng ở tương lai.
2. Khẩu không lỗi.
3. Ý không lỗi.
4. Không có tư tưởng kỳ thị.
5. Không có loạn tâm.
6. Không lưu giữ tri kiến.
7. Ý muốn độ sanh không giảm.
8. Chánh niêm không giảm.
9. Tuệ tâm không giảm.
10. Tinh tấn không giảm.
11. Xả ngã không giảm.
12. Xả pháp không giảm.
13. Thân hành động có trí tuệ.
14. Khẩu nói ra có trí tuệ.
15. Ý tư duy có trí tuệ.
16. Trí tuệ biết đúng về quá khứ.
17. Trí tuệ biết đúng ở hiện tại.
18. Trí tuệ biết đúng ở tương lai.
Đại Quang Minh Tàng là tên của một thiền định. Trụ ở thiền định Đại Quang Minh thì không có vô minh mê ám. Do vậy mà thân tâm Như Lại tịch tĩnh và bình đẳng như hư vô. Bấy giờ tự khắc các cõi Tịnh độ hiện ra.
“Có tâm tịnh thì có cõi Phật tịnh”.
Muốn tu học Đại thừa cần phải phát chí Đại thừa. Trí phải học theo Đại
Trí Văn Thù. Hạnh phải học với Đại Hạnh Phổ Hiền…
Trí Văn Thù. Hạnh phải học với Đại Hạnh Phổ Hiền…
2. Bồ tát Đại Trí Văn Thù cầu Phật chỉ dạy ba điều:
1/ Cần có kiến giải thế nào để khi tu hành khỏi vướng mắc vào “bệnh chấp”.
2/ Phải học chánh pháp với ai để có thể
tránh được con đường tà kiến”.
tránh được con đường tà kiến”.
3/ Xin Phật dạy lại pháp hành của Phật trong lúc tu nhơn.
3. Rằng PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA, SỬ DỤNG QUÁN TRÍ VIÊN GIÁC SOI RỌI CHÂN LÝ VIÊN GIÁC, DO VẬY VÔ MINH KHÔNG SANH KHỞI, GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO.
Giáo lý “đốn ngộ” “đốn tu” “đốn chứng” là vậy đó. Ý Phật dạy rằng con người vốn có cái chân trí trong sáng, thanh tịnh, không có tội lỗi, đó là cái tánh giác ngộ viên mãn vốn có của con người. Hiên tượng vạn hữu cũng vậy, tánh của nó vốn thanh tịnh viên mãn không có nhiễm ô, không có xấu xa. Đó là chân lý tự nhiên của hiện tượng vạn pháp.
Dùng chân trí thanh tịnh soi rọi chân lý thanh tịnh, tâm và cảnh đều thanh tịnh. Pháp hành của Như Lai khi tu nhơn chỉ có vậy. Và do vậy vô minh không sanh khởi mà gọi là thành Phật đạo.
Nền giáo lý “đốn ngộ đốn tu” chỉ rõ nhân vị của con người do con người quyết định vi con người tối linh ư vạn vật.
Ngài Quy Sơn nói:
“Kim sanh tiện tu quyếtđoán. Tưởng liệu bất do biệt nhơn.
Tức ý vong duyên bất dữ chư trần tác đối. Tâm không, cảnh tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”.
Tức ý vong duyên bất dữ chư trần tác đối. Tâm không, cảnh tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”.
(Tự mình định đoạt cuộc đời mình, dứt khoát không do ai khác. Làm chủ tâm cảnh, cắt đứt căn trần, tự khắc thân tâm cảnh giới thanh tịnh và tịch tĩnh bình đẳng như hư vô… Chân lý là như thế, xưa nay không biết là lỗi ở nơi người.)
4. Vô minh, nó không là gì cả. Nó là thứ huyễn vọng không có thực thể. Mê thì vô minh tác động hoành hành. Giác thì vô minh không có. Ví như hoa đốm trong hư không. Hoa đốm chỉ có đối với người bị bệnh nhặm mắt. Người không bệnh nhặm mắt không sao tìm thấy hoa đốm.
5. Phận sự của người tu hành giống như trách nhiệm của người gác cửa. Thành công hay thất bại tùy thuộc ở một chữ BIẾT.
Ơ chương nầy, Phật dạy Bồ tát Văn Thù hãy quan tâm về chữ BIẾT. BIẾT để mà nhận biết vô minh, nhưng khi biết được vô minh, hóa giải hết vô minh thì tánh biết và vô minh bị biết đều buông bỏ hết, chỉ còn một thể giác thanh tịnh viên mãn. Bấy giờ được gọi là người TÙY THUẬN VIÊN GIÁC TÁNH.
Sanh tử là diệu dụng tùy duyên của bản thể chân như bất biến. Sanh tử
không phải là việc đáng sợ. Thập phương Bồ tát cho đến chư Phật Như
không phải là việc đáng sợ. Thập phương Bồ tát cho đến chư Phật Như
Lai vẫn tùy nguyện vào ra sanh tử để vun quén mãi cái nhân thành Phật cho mình.
Sanh tử do “vọng nhận” mới là thứ sanh tử đáng sợ. Đây là thứ sanh tử khổ đau vì vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, vọng nhận bóng dáng lục trần làm tướng tự tâm của mình. Sanh tử nầy là con đẻ của vô minh, khổ não ưu bi phát xuất từ “vọng nhận” thật sanh và thật tử…
0 nhận xét:
* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!