Thứ Năm, 17 tháng 2, 2011

KINH PHÁP HOA Trọn bộ (PHẨM 15)

PHẨM 15
TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT
Lúc bấy giờ, các Bồ tát, nguyên từ các nước phương khác lại, đông hơn cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng, đồng đứng dậy chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Thế Tôn nhận lời, chúng con nguyện, sau khi Phật diệt độ, sẽ rộng nói kinh Pháp Hoa ở thế giới Ta bà, để gian tăng tinh tấn và hộ trì những người đọc tụng, sao chép, cúng dường kinh này”.

Phật đáp: “Thôi khỏi. Này Thiện nam tử ! Không cần các con hộ trì kinh nầy. Vì sao ? Vì thế giới Ta bà của ta tự có Bồ tát đông như cát của sáu muôn sông Hằng. Những Bồ tát và quyến thuộc ấy, sau khi ta diệt độ, sẽ có khả năng giữ gìn, đọc tụng, rộng nói kinh này”.
Lúc Phật nói lời này, trong ba ngàn đại thiên quốc độ ở thế giới Ta bà, đất đều rung nứt, và từ trong lòng đất, vô lượng ngàn muôn ức Bồ tát đồng thời vọt lên. Các Bồ tát ấy, thân như vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, sáng ánh khôn lường, trước kia trú trong hư không của chỗ thấp nhất ở thế giới Ta bà, nay nghe tiếng của Phật Thích Ca, nên từ chỗ thấp ấy mà xuất hiện đến. Mỗi mỗi Bồ tát đều là bậc thủ lãnh dẫn đường cho đại chúng
và mỗi vị đều có hoặc sáu, hoặc năm, bốn, ba, hai, một muôn hằng sa quyến thuộc, hoặc một hằng sa, nửa hăng sa, một phần hằng sa hay một phần trong ngàn ức na do tha phần hằng sa, hoặc từ ngàn muôn ức na do tha sụt lần xuống cho tới một muôn, một ngàn, một trăm, mười, năm, bốn, ba, hai, một quyến thuộc đệ tử. Lại cũng có những Bồ tát chỉ có một mình, thích hạnh “viễn ly”. Tất cả các Bồ tát ấy đông vô số kể.
Từ dưới đất vọt lên rồi, Các Bồ tát ấy đều đến ngọn tháp bảy báu nhiệm mầu trong hư không, là chỗ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca đang ngự, vập đầu xuống chân làm lễ, rồi lại dến tòa sư tử, dưới cột báu, chỗ Phật ngồi mà làm lễ. Xong, các vị đi quanh bên mặt Phật ba vòng, rồi chấp tay chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca.
Từ lúc các Bồ tát xuất hiện cho đến khi làm lễ xưng tán Phật, một khoảng thời gian trôi qua, lâu năm mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ đức Thích Ca ngồi yên nín lặng, bốn hạng đệ tử cũng đều nín lặng. Nhờ sức thần Phật, đại chúng thấy 50 tiểu kiếp trôi qua như nửa ngày. Cùng một lúc và cũng nhờ sức thần Phật, bốn chúng thấy Bồ tát đầy khắp hư không và vô lượng ngàn muôn ức quốc độ.
Trong số Bồ tát ấy, có bốn vị đứng đầu:
1. Thượng hạnh
2. Vô biên hạnh
3. Tịnh hạnh
4. An lập hạnh.
Đồng chấp tay nhìn đức Thích Ca, bốn vị kính hỏi: “Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có được ít bệnh, ít buồn và được an vui không ? Những người đáng độ, có thọ giáo dễ không ? Họ không có làm gì Thế Tôn mệt nhọc chứ ?”
Thế Tôn nói: Đúng thế ! Đúng thế ! Này các thiện nam tử, Như Lai an vui, ít bệnh, ít buồn, các hàng chúng sanh dễ mà hóa độ, không có mệt nhọc. Tại sao thế ? Vì những chúng sanh ấy, từ trước đến nay, đời đời thường được ta hóa độ cho và chính họ cũng đã cung kính tôn trọng chư Phật trong thời quá khứ và trồng các gốc lành. Các chúng sanh ấy, thấy thân ta, nghe tiếng ta nói, là liền tin lãnh và nhập vào tuệ Phật, trừ những người trước đã tu tập theo Tiểu thừa. Đối với hạng này, ta cũng sẽ khiến cho nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa và đi vào tuệ Phật.
Lúc bấy giờ Bồ tát Di Lặc cùng tám ngàn hằng sa Bồ tát trong pháp hội đều thầm lấy làm lạ việc vô số Bồ tát đã từ đất vọt lên. Muốn giải nghi cho tất cả và cho riêng mình, Bồ tát Di Lặc bạch Phật: “Nguyện Thế Tôn cho chúng con biết, vô lượng Bồ tát này từ đâu mà đến và nhóm họp để làm gì ?Ai đã thuyết pháp giáo hóa cho các vị ? Các vị đã theo ai mà pháp tâm, đã thọ trì và thực hành kinh điển thế nào? Lại tu tập Phật đạo nào mà sức trí thần thông to lớn như thế ? Bạch Thế Tôn, chúng con chưa từng thấy một việc như vậy. Con thường đi qua nhiều nước, gặp gỡ nhiều người, chưa hề biết một vị trong số Bồ tát ấy. Vậy kính xin Thế Tôn nói cho con biết các Bồ tát ấy ở nước nào đến mà hốt nhiên từ đất vọt lên”.
Cùng lúc ấy, các phân thân Phật Thích Ca từ vô lượng muôn ngàn ức cõi khác đồng đến ngồi xếp bằng trên tòa sư tử, dưới các cội cây báu trong tám phương. Những thị giả của các phân thân cùng bạch hỏi về lai lịch của các Bồ tát từ đất vọt lên. Chư phân thân Phật đáp: “Bồ tát Di Lặc đã hỏi Phật Thích Ca. Phật sẽ đáp. Vậy hãy chờ !.
Khi ấy Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ tát Di Lặc: “Hay thay lời hỏi của Di Lặc ! Ta sẽ tuyên bày trí tuệ, thần thông, sức mạnh và uy thế của chư Phật, vậy hãy một lòng tinh tấn nghe ta nói”.
Sau khi nói một bài kệ lập lại lời vừa nói, Thế Tôn kêu Bồ tát Di Lặc nói: Những Bồ tát đông vô số kể và từ đất vọt lên, đều do ta giáo hóa chỉ dẫn, sau khi ta đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả đều là bậc đã điều phục tâm mình, lòng sanh ý đạo, và ở trong hư không phía dưới thế giới Ta bà. Tất cả đã từng đọc tụng thông suốt kinh điển, phân biệt trong chỗ nghĩ suy và sửa cho ngay thẳng những nhớ tưởng của mình. Này Di Lặc, các Bồ tát ấy không thích ở chỗ đông người ồn ào, mà thường ưa ở nơi vắng lặng, siêng tu tinh tấn, chưa hề ngơi nghỉ, lại cũng không dừng bước ở cấp Nhân, Thiên mà thường thích được trí tuệ thâm sâu, không còn vướng phải một chướng ngại nào. Lại
cũng thường vui nơi pháp Phật, một lòng tinh tấn cầu tuệ Vô Thượng.
Bồ tát Di Lặc và vô số Bồ tát, lòng sanh nghi hoặc, tự hỏi: “Làm thế nào trong khoảng thời gian ngắn mà Thế Tôn giáo hóa được một số Bồ tát đông như thế ?”. Nghĩ xong bèn bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, từ ngày còn là Thế tử bỏ cung điện ra đi rồi đến khi ngồi dưới cội bồ đề đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, từ ấy đến nay, vừa hơn bốn mươi năm, vậy làm thế nào trong khoảng thời gian ngắn ấy Thế Tôn lại giáo hóa cho vô lượng vô biên Bồ tát ấy được ? Vì muốn thành tựu như Bồ tát ấy phải là người trong ngàn muôn ức kiếp, trồng các căn lành ở vô lượng vô biên nước Phật và thường tu phạm hạnh. Thế Tôn thì thành đạo đến nay chưa bao lâu, các Bồ tát kia thì phải tu hành trong vô lượng kiếp mới được thần thông lớn như vậy. Thế thì làm sao hiểu được câu chuyện cha trẻ con già nầy ? Riêng chúng con thì một lòng tin Phật, vì Phật không bao giờ nói ngoa, nhưng các Bồ tát mới pháp tâm tu hành, sau Phật diệt độ, có thể không tin lời Phật dạy. Vậy
kính xin Thế Tôn giải nghi cho hàng mới phát tâm này, để họ khỏi phải đọa vào nẻo ác.
THÂM NGHĨA
Để đưcợ sáng nghĩa hơn, ta có thể gọi tiểu đề của phẩm kinh này là Bồ tát tùng địa dũng xuất. Nôi dung phẩm kinh nói về sự kiện lạ lùng: Bồ tát từ dưới đất hiện ra.
Chữ địa ở đây nên hiểu là tâm địa, là cõi đất tâm của chính con người. Bồ tát bổn nguyện, bổn hạnh, bổn thệ đều pháp xuất từ tâm địa mà ra, chớ không do ở tha nhân hay tha phương mà đến.
Phật từ chối hảo ý giúp đỡ của chư Bồ tát ở mười phương, đông hơn số cát của tám con sông Hằng. Điều đó cho thấy ý nghĩa: ” Cầu người không bằng cầu ở mình”. Tha lực sẽ vô ích, nếu không có sự cố gắng của tự lực.
Phật giới thiệu cõi Ta bà có Bồ tát đông bằng số cát của sáu muôn sông hằng và vô số quyến thuộc đủ sức hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa, sau Phật diệt độ. Điều này dạy cho chúng ta hãy dựa vào tự lực phát huy cái khả năng trí tuệ nghị lực của chính ta. Tự lực là chánh nhơn, quyết định để cải tạo và xây dựng chơn hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Ở đây cho sự giải thoát giác ngộ của mình. Sự giúp đỡ của tha nhân dù nhiệt thành đến đâu vẫn là hữu hạn. Chỉ có sự cố gắng của sức mình mới đạt
đến mục đích, đáp ứng thỏa mãn trọn vẹn ý chí hoài bảo của mình. Con số Bồ tát tình nguyện giúp đỡ hộ trì chỉ ngang số cát của tám con sông Hằng thôi. Trong khi đó, Phật cho biết số Bồ tát tự có ở cõi Ta bà nhiều như số cát của sáu muôn sông Hằng và mỗi Bồ tát còn có thêm vô số quyến thuộc. Cán cân lực lượng nghiêng về bên tự lực gấp mấy vạn lần.
Nếu tự mê mờ không biết mình có tâm Bồ tát thì hạnh Bồ tát dù có sẵn ở nôi tâm, cũng không có môi trường xuất hiện. Nếu có tự giác, biết mình có tâm Bồ tát, thì Bồ tát hạnh
tùy đó mà xuất hiện ra. Đó là chỗ kinh nói: Phật vừa giới thiệu cõi Ta Bà có Bồ tát thì Bồ
tát từ Đất hàng hàng xuất hiện.
“Kim sanh tiệm tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nơn” của Tổ Quy Sơn dạy, phát xuất từ ý kinh nầy. Đừng mơ mộng viễn vông. Thực tế, bạn phải định đoạt số phận bạn, chớ không do ai khác. Bạn phải phát huy cái tinh thần độc lập tự do ở trong bạn, cái Phật tánh vốn có, cái tự tánh Niết bàn ở trong bạn. Nó là của chính bạn đó.
- Có độc lập tự do về kinh tế, chính trị mới có chơn hạnh phúc cho một dân tộc.
- Có độc lập tự do về kiến trúc và tài chánh, mới có chơn hạnh phúc cho vợ chồng trẻ xây tổ ấm cho một gia đình.
- Có độc lập tự do trong tự lực cánh sinh, mới có chơn hạnh phúc cho người có chí vá trời lấp biển.
- Có độc lập tự do trong giác ngộ giải thoát, mới có chơn hạnh phúc cho người quyết tâm
đi con đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hai mươi lăm thế kỷ trước, Phật dạy: Hãy trông cậy vào sức mình là chính, đừng trông cậy ở nơi ai khác.
Vàng 24 là thứ vàng trọn vẹn chất vàng. Nó không thể là đồng, là thau và không bị “oxýt hóa” cháy ngầm như các kim loại khác. Mượn tánh chân thường bất hoại của vàng ròng để ví đức tánh tự giác sẵn có, Bồ tát tâm, Bồ tát hạnh sẵn có ở tâm địa mọi người. Đức tánh đó, khi mê nó không mất đi đâu, khi ngộ cũng không phải nó mới có. Nó là đức bất hoại chân thường như vàng ròng kia vậy. Do vậy mà thân Phật và thân Bồ tát là “thân kim sắc”.
Có người hỏi: Thế thì Bồ tát tâm, Bồ tát hạnh, là đức tánh vốn có của con người. Vậy sao từ trước cũng như nay, tôi vẫn là một chúng sanh đau khổ ?
- Đáp rằng: vàng vốn có ở trong quặng, mà chưa phát hiện quặng vàng. Phát hiện quặng vàng rồi cần phải nấu lọc, mới có được vàng y tinh chất. Không có hai điều kiện trên đó, thì vàng có cũng như không có vậy.
Bồ tát xuất hiện, công việc trước tiên đến viếng Tháp và ra mắt hai Như Lai: một quá khứ và một hiện tại. Tiêu biểu ý nghĩa: Rằng người phát tâm hành Bồ tát hạnh. Công việc trước hết quay về với thỉ giác và bản giác của chính mình, cũng có nghĩa là quay về với Phật pháp thường trụ ở trong khoảng không gian vô tận và thời gian vô cùng, quay về chân lý vậy.
Các Bồ tát lễ tháp, ra mắt hai Như Lai và các phân thân Phật mười phương nhóm họp, nói lên ý nghĩa: Bồ tát là Nhân địa. Nhân địa luôn luôn hướng lên quả địa. Vô thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác là cái quả mà chư Bồ tát cần đạt đến. Ngoài ra, Bồ tát không mong cầu gì khác, mong cầu khác là sai mục tiêu nguy hiểm đó.
Thời gian nửa ngày, năm mươi tiểu kiếp, năm mươi tiểu kiếp chừng nửa ngày, xét cho tột lý, nó không còn là vấn đề giải thích “vì sao?”. Bởi lẽ sự kiện ấy diễn ra không đặt trong bối cảnh hiện tượng vật chất thì dựa vào đâu để ấn định tiêu chuẩn thời gian ! Chi tiết đoạn kinh này, xác định rõ cái lý: Phật và Bồ tát được nêu trong phẩm “Bồ tát tùng địa dũng xuất” là những đức tính tượng trưng cho sự giác ngộ. Sự giác ngộ đó, nhờ sức thần Phật mà được thấy, được nghe, chứ không phải ở nơi cảnh thực. Do đó, ta có thể hiểu: Phật là Phật tâm. Bồ tát là Bồ tát tâm vốn có ở nơi đất tâm của mọi người vậy.
Nói đến Bồ tát là nói đến hạnh, nói đến sự thể hiện của việc làm tự lợi lợi tha, tự giác
giác tha. Vì hạnh tức là hành vậy. Không làm một việc làm nào là không có hạnh. Không hạnh, ý nghĩa Bồ tát không có, dù đã có thọ giới Bồ tát rồi. Do đó, Bồ tát dù nhiều vô lượng vô số, nhưng để có thực nghĩa, Bồ tát phải được thể hiện qua những hạnh sau đây:
1. Thượng hạnh: Hạnh hướng thượng. Phải thường tư duy và hành động trong chiều hướng trong sáng, cao đẹp hướng lên giải thoát, giác ngộ hoàn toàn.
2. Tinh hạnh. Hạnh thanh tịnh. Luôn luôn phát triển mặt tích cực: Thấy biết chân chánh, nói năng chân chánh, hành động chân chánh, siêng năng chân chánh, định tâm chân chánh.
Hạn chế mặt tiêu cực! tham, sân, si, mạn nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Phẩn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, điệu cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Những vô minh phiền não này nên cải tạo hòa bình có lợi hơn là dụng tâm thô bạo đàn áp diệt trừ:
“Ngũ uẩn phù hư không khứ lai
Tam độc thuỷ bào hư xuất một…”
Ngũ uẩn thân, vốn đã huyển hư, vô minh phiền não lại càng huyển hư hơn nữa.
3. Vô biên hạnh: Hạnh rnộng lớn. Lấy việc hoằng truyền chánh pháp làm việc nhà, lấy việc lợi ích chúng sanh làm sự nghiệp. Vượt ra sự ràng buộc của sự ích kỷ hẹp hòi. Phá vỡ tường thành kiên cố “chấp ngã, chấp pháp”.
4. An lập hạnh: Hạnh đứng vững. Lấy giải thoát giác ngộ làm mục tiêu. Lấy Văn, tư, tu làm phương tiện. Chống bát phong làm hành động. Dĩ từ bi vi thất. Nhu hòa nhẫn nhục vi y. Nhất thiết pháp không vi tòa.
Như lai thì bao giờ cũng an vui và ít bệnh, ít não, Như Lai đã xác định với Bồ tát như thế. Vì, Như Lai là bản thể như như của vạn pháp, dù tùy duyên mà vẫn thường hằng bất
biến.
Có chúng sanh nào mà chẳng sống ở tâm Như Lai của mình. Như Lai có lúc nào chẳng gần gũi giáo hóa chúng sanh khi chúng sanh chưa thành được Phật.
Chúng sanh dù có si mê đen tối đnế đâu, cũng có những phút giây tỉnh thức. Dù làm nhiều tội ác nhưng rồi cũng có khi làm được ít nhiều việc thiện. Thế là đã trồng căn lành cội đức ở các Phật quá khứ rồi. Thế nên Như Lai cũng chẳng khó lắm trong việc giáo hóa chúng sanh.
Dù ai có hẹp hòi tiêu cực, mtộ khi giác ngộ cũng sẽ vượt lên sôốg đời sống tích cực vô ngã vị tha được. Kinh nói: Những người Tiểu thừa Phật cũng khiến cho họ nghe học kinh điển Đại thừa.
Những yếu tố nào làm nên thành quả Bồ tát ở cõi Ta bà ?
- Phật dạy: Sở dĩ Bồ tát cõi Ta bà thành tựu được thắng quả như thế là do:
• Bồ tát trụ ở cõi hư không, phía dưới cõi Ta bà. Trụ giữa hư không, có nghĩa là không trụ vào một pháp hữu vi nào.
• Đọc kinh điển nhiều, suy nghĩ kỹ, nghĩ tưởng chân chánh.
• Không thích ở chỗ đông, nói nhiều, nói nhảm, nói thị phi vô ích.
• Thích chỗ tịch tĩnh, thường tinh tấn, không giải đãi pháp lành.
• Ham trí tuệ sông sâu, Không thích nương người, trời.
• Thường ham pháp Phật, cầu tuệ vô thượng.
Qua các kinh luận, Bồ tát Di Lặc là đức hiệu được biểu trưng cho thức. Khác hơn Bồ tát Văn Thù biểu trưng cho Trí. Nhận thức sự kiện bằng thức thì không thể hiểu được sự kiện: Bồ tát từ đất xuất hiện ra.
Nhận thức sự kiện bằng thức thì Phật Thích Ca thành đạo mới hơn 40 năm, làm gì có thể giáo hóa hàng Bồ tát có thành tích tu tập và phước đức tương đương với Tam a tăng kỳ ! Vì thế, nẩy sanh ý nghĩ: “Con già cha trẻ” cầu Phật nói rõ nguồn cơn…
Để tháo gỡ mối nghi ngờ, Phật nói rõ về tuổi thọ của Như Lai ở phẩm Như Lai thọ
lượng, thứ 16 tiếp.

SHARE THIS

Author:

Etiam at libero iaculis, mollis justo non, blandit augue. Vestibulum sit amet sodales est, a lacinia ex. Suspendisse vel enim sagittis, volutpat sem eget, condimentum sem.

0 nhận xét:

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!