Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Như Lai Viên Giác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Như Lai Viên Giác. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 7)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 7)

CHƯƠNG BẢY
XA MA THA, TAM MA BÁT ĐỀ VÀ THIỀN NA LÀ PHÁP HÀNH CĂN BẢN TRONG TOÀN BỘ NỀN GIÁO LÝ PHẬT
Lúc bấy giờ Bồ tát Uy Đức Tự Tại đảnh lễ dưới chân Phật và chấp tay thưa:
Đấng Đại bi Thế Tôn đã vì chúng con dạy rõ phương pháp tu hành tùy thuận Viên Giác tánh, hàng Bồ tát chúng con giác tâm bừng sáng, không phải tu tập mà được lợi ích lớn lao.
Bạch Thế Tôn ! Ví như đại đô thành, đường đi vào không phải một, tùy hướng mà đến theo sự thuận lợi và ý thích của mỗi người. Bồ tát tu hành trang nghiêm Phật độ có lẽ không phải chỉ có một pháp môn. Cúi xin Như Lai vì chúng con và chúng sanh đời sau dạy cho pháp môn tu hành tiệm tiến, chúng con cần phải làm gì và có bao nhiêu phương cách để vun bồi
trí tuệ, hầu tỏ ngộ diệu tánh Viên Giác để rong chơi trong biển đại tịch diệt của Như Lai?
Phật dạy: Nầy Uy Đức Tự Tại ! Vô thượng diệu giác phổ biến khắp mười phương, sản sanh ra chư Như Lai và tất cả pháp bình đẳng đồng thể. Ơ trong đó việc tu hành không có hướng hai, nhưng vì tùy thuận căn cơ chủng tánh mở bày phương tiện nên có vô lượng pháp môn sai khác. Tuy vậy, có thể tóm kết sự sai khác ấy trong ba phương thức tu hành căn bản:
Một, trước hết Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Lấy sự tỏ ngộ ấy làm đối tượng trụ tâm. Từ đó, vọng niệm đứng lặng, tuệ giác phát sanh, nhận biết phiền não nội tâm chỉ là thứ khách trần. Xả bỏ được tính chấp nặng nề, tâm hành giả bèn có được trạng thái khinh an tịch tĩnh. Bấy giờ tâm của chư Phật hiển hiện vào như hình tượng ảnh hiện trong gương. Thực hiện phương thức nầy thành tựu, gọi đó là pháp môn phương tiện XA MA THA (CHỈ).
Hai, Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Sử dụng giác tâm nhận thức căn trần đều là huyễn hóa. Lấy huyễn tâm trừ huyễn cảnh, lấy huyễn trí giải hoá huyễn tâm. Bừng tỉnh giác biết rằng thân tâm cảnh giới đều hư huyễn. Bấy giờ tâm hành giả được trạng thái khinh ai đại bi. Theo đà phát triển của giác tâm thanh tịnh tăng tiến tu hành trưởng dưỡng quán trí như đất nuôi mạ. Thành tựu hiệu lực như thế, gọi đó là pháp môn phương tiện TAM MA BÁT ĐỀ (QUÁN).
Ba, Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Sử dụng giác tâm trừ chấp. Xóa bỏ cái thấy biết huyễn hóa. Xoá bỏ cái nhận thức thanh tịnh của giác tâm. Không để cho ngăn ngại vì cái biết và cái không biết. Vượt qua tất cả các ngại. Thân tâm hiện hữu trên cõi đời mà Niết bàn và phiền não không trở ngại gì nhau. Ví như tiếng ngân vang của chuông từ chuông mà có, nhưng tiếng và chuông không hề ngăn ngại cho nhau. Lúc bấy giờ hành giả phát ra sự khinh an tịch diệt, tùy thuận
diệu tánh Viên Giác. Ơ trong cảnh tịch diệt, ý niệm vọng chấp: ta, người, chúng sanh và thọ mạng trở thành phù hư không còn công dụng. Thành tựu được hiệu lực như thế, gọi đó là pháp môn tu tập THIỀN NA (gọi tắt là THIỀN).
Nầy Uy Đức Tự Tại ! Ba pháp môn đó là những phương thức gần gũi và tuỳ thuận tánh Viên Giác. Mười phương Như Lai nhơn đó mà thành Phật. Mười phương Bồ tát, bao nhiêu phương tiện đồng dị cuối cùng đều y ba phương thức tu hành đó mà người thì chứng ngộ, kẻ được thể nhập Như lai Viên Giác.
Nầy Uy Đức Tự Tại ! Giả sử có ngưới siêng tu thánh đạo, giáo hoá thành tựu trăm ngàn muôn ức A La Hớn, Bích Chi Phật, không bằng người nghe pháp môn Viên Giác thanh tịnh nầy tùy thuận tu tập trong một sát na!
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Uy Đức ông nên biết. Viên Giác tâm Vô thượng. Bản chất không hai tướng. Tùy thuận mở phương tiện. Pháp môn có rất nhiều.
Như Lai tóm kết lại. Phương thức có ba điều. Tịch tĩnh XA MA THA. Như gương in ảnh tượng.
NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ.
Như đất nuôi mọng mạ. THIỀN NA sâu tịch diệt. Như tiếng ngân và chuông. Ba pháp môn màu nhiệm. Đều tùy thuận Viên Giác. Mười phương các Như Lai. Và chư Bồ tát chúng.
Nhơn đấy được thành đạo.
Ba pháp, tu viên mãn.
Được cứu cánh Niết bàn.
TRỰC CHỈ
Trong đạo Phật có rất nhiều pháp môn để tu và hành. Tùy hoàn cảnh, căn tánh, hành giả có thể chọn một pháp môn tu thích hợp với mình. Kinh sách Phật có câu: “vô lượng pháp môn tu”. Ý nghĩa của câu đó, cho biết rằng, người tu chọn pháp môn nào cũng được đều có thể đạt mục đích được, không nhất thiết bắt buộc phải theo một pháp môn giáo điều cố định nào. Đó là tinh thần phóng khoáng và tánh “tự do” của nền giáo lý Phật. Tuy vậy, trong phóng khoáng tự do vẫn có tiêu chuẩn của tự do phóng khoáng. Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền na là tiêu chuẩn chung cho “tất cả pháp môn”. XA MA THA là Phạn âm Trung Hoa dịch là CHỈ. Chỉ là
ngăn dứt vọng tâm chặn đứng loạn tưởng. Tâm con người thường ngày quay cuồng trong cái vòng lẩn quẩn: Mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn… không có phút đứng yên. Tất cả thức đó là nguyên nhân gây ra khổ não. Hành giả vận dụng nội lực cắt bỏ, chặn đứng các thứ vọng tưởng của cái vòng lẩn quẩn ấy để tâm được dừng trụ. Tâm dừng trụ một chỗ, đó là công dụng của pháp tu CHỈ và XA MA THA. Trạng thái dừng trụ yên tĩnh được chiếm nhiều thời gian trong ngày, trong cuộc sống. Đây là bước đầu hành giả được làm quen và là cơ hội để hành giả nhận diện bộ mặt
thật của “chơn tâm thường trú” của mình.
TAM MA BÁT ĐỀ Trung Hoa dịch là QUÁN. Quán là vận dụng TRÍ để nhận xét đối tượng. Ví dụ: Cái bàn. Lấy cái bàn làm vật đối tượng để nhận xét.
Ví dụ: “Cái bàn là vật VÔ THƯỜNG”. Qua nhận xét bằng TRÍ, hành giả
thấy “cái bàn vô thường” là một chân lý.
TRÍ nhận xét thuật ngữ gọi là “năng quán”. Cái bàn bị nhận xét, thuật ngữ gọi là “sở quán”. Dùng trí năng quán, quán xét biết được đối tượng sở quán (cái bàn) là một vật vô thường.
Đó là cách sử dụng Tam Ma Bát Đề trong tu tập. Dựa trên pháp quán về “cái bàn” ấy, bậc đại trí lợi căn còn suy diễn và đánh giá hiện tượng vạn hữu qua kết luận bao quát bằng sự nhận thức chân lý:
“Tất cả hiện tượng vạn hữu đều vô thường. Vì chúng là vật chất.
Phàm vật chất đều vô thường.
Ví như cái bàn…”
THIỀN NA là Phạn âm Trung Hoa dịch TĨNH LỰ, có nghĩa là tư duy trong tịch tĩnh. Chữ TĨNH có ý nghĩa như chữ CHỈ. Chữ LỰ có ý nghĩa như chữ QUÁN. Do vậy, THIỀN NA được hiểu đồng nghĩa như CHỈ QUÁN. Cho nên nói đến “TU THIỀN” là nói đến pháp môn CHỈ QUÁN song tu. Thiền là gọi tắt của từ Thiền na ấy.
Tóm lại, XA MA THA, TAM MA BÁT ĐỀ, THIỀN NA, là ba pháp môn: CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN đồng tu. Đó là ba pháp môn căn bản của tám muôn bốn ngàn pháp môn tu trong đạo Phật. Học Phật, tu Phật mà không biết sử dụng CHỈ, QUÁN hoặc CHỈ QUÁN đồng tu thì quả quyết mà nói thẳng rằng: cách tu đó, bất cứ với dạng thức nào, đều được xem là tu sai lạc, hoàn toàn không đem lại một lợi ích, một kết quả nào. Ví như người thợ làm bánh Trung Thu trong lò bánh không có bột, đường, thịt,
hạt, trứng… thì không làm sao có được bánh Trung Thu ngon lành trong thị trường Trung Thu tháng Tám !
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 6)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 6)

CHƯƠNG SÁU
TÁNH VIÊN GIÁC VỐN LÀ PHI TÁNH
Bấy giờ, Bồ tát Thanh Tịnh Tuệ đảnh lễ Phật và chấy tay thưa:
Đấng Đại bi Thế Tôn vì chúng con nói những việc bất tư nghì, từ trước chúng con chưa từng được nghe. Nhờ sự chỉ dạy khéo léo của Thế Tôn thân tâm chúng con khinh an thư thới được lợi ích lớn lao. Kính xin Như Lai Thế Tôn vì đại chúng trong hội này, dạy rõ thêm về tánh Viên Giác. Đối với Như Lai Viên Giác Diệu Tánh chúng sanh, Bồ tát và chư Phật tu hành khi chứng đắc có sai khác chi chăng? Cúi mong Như Lai chỉ dạy, khiến cho chúng sanh đời sau tùy thuận khai ngộ và lần lần thể nhập.
1. Phật dạy: Thanh tịnh Tuệ! Ông cũng lại hỏi Như Lai về pháp tu hành tiệm tiến sai biệt! Này, Thanh Tịnh Tuệ ! VIÊN GIÁC TỰ TÁNH vốn là PHI TÁNH, tùy thuận các tánh hư vọng đối đãi mà Như Lai khai thị, thực lý thì không có gì để chứng đắc, cũng không có gì để nắm lấy. Bởi vì ở trong thật tướng không có Bồ tát và chúng sanh. Bởi vì Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa. Huyễn hóa diệt, không còn ai là người chứng đắc. Ví như con mắt không tự thấy con mắt, vì tánh của nó tự bình đẳng, không có chủ thể
bình đẳng can dự vào. Chúng sanh mê mờ điên đảo, chưa có thể diệt trừ huyễn hóa, đối với kẻ diệt người chưa, dựa trên công dụng hư vọng đó mà giả định ra có sai biệt! Nếu tùy thuận cảnh giới tịch diệt VIÊN GIÁC NHƯ LAI thì không có đối tượng tịch diệt và người chứng nhập tịch diệt.
2. Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ do
vọng tưởng về bản ngã và tham ái bản ngã, cho nên khởi niệm ghét thương đam mê ngũ dục, không từng phản tỉnh hồi quang. Nếu gặp thiện tri thức chỉ bày TÁNH VIÊN GIÁC THANH TỊNH, xác định rõ ràng và phân tích tánh khởi diệt vô thường hư huyễn của tự ngã, bèn nhận biết kiếp sống này chỉ là bóng quáng khởi diệt trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC nhiệm mầu.
3. Lại có hạng người trừ hết bóng quáng khởi diệt như huyễn, được cảnh giới thanh tịnh, bèn chấp ở cảnh tịnh, khiến cảnh tịnh trở thành đối tượng chướng ngại, cho nên ở trong Viên Giác mà không được tự tại. Hạng người như thế, gọi là phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác.
Hàng Bồ tát thường bị chướng ngại vì hiểu biết. Dù trừ được cái ngại đó, nhưng còn mắc vào cái ngại giác tri (năng quán) do vậy
mà không được tự tại. Hạng người như thế, gọi là Bồ tát chưa đăng
địa tùy thuận tánh Viên Giác.
Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Có “sở chiếu”, “năng chiếu” đều là chướng ngại. Thế cho nên Bồ tát thường Giác mà không trụ ở Giác. Năng chiếu, sở chiếu đồng thời vắng bặc. Ví như người tự cắt đầu, đầu đã đứt rồi mà không có người cắt. Cũng vậy, lấy tâm ngại tự diệt các chướng ngại. Ngại đã diệt hết rồi, không có người diệt ngại. Nhận thức rằng giáo lý của kinh điển ví như ngón tay chỉ trăng, nhìn thấy trăng rồi, ngón tay không phải là trăng. Tất cả Như Lai vận dụng ngôn thuyết khai thị cho Bồ tát cũng như thế đấy. Hạng người như vậy, gọi là Bồ tát đăng địa tùy thuận tánh Viên Giác.
Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Tất cả chướng ngại là cứu cánh giác. Niệm
đúng, niệm sai đều là giải thoát. Pháp tốt, pháp xấu đều là Niết
bàn. Trí tuệ ngu si đều lá Bát Nhã. Pháp hành của Bồ tát, của ngoại đạo đều là Bồ đề. Vô minh, chơn như xem đồng một thể. Giới, định, tuệ, dâm, nộ, si đều là phạm hạnh. Chúng sanh, quốc độ đồng một pháp tánh. Địa ngục, Thiên cung đều là Tịnh độ. Hữu tình, vô tình đều thành Phật đạo. Tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát.
Dùng pháp giới hải tuệ thấy rõ thực tướng của các tướng y như hư
không. Đấy gọi là cảnh giới Như Lai tùy thuận tánh Viên Giác.
4. Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Bồ tát và chúng sanh nào ở trong mọi lúc không khởi vọng niệm. Đối với vọng tâm cũng không ngăn dứt. Ơ cảnh vọng tưởng không tăng thêm bực bội. Lúc không bực bội không luận bàn chân thực. Những chúng sanh nghe được pháp môn như thế mà tin hiểu, thọ trì, không sanh kinh sợ, đó là người tùy thuận tánh Viên Giác trọn vẹn trên cõi đời.
Các ông phải biết những chúng sanh như thế, là người đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và đại Bồ tát, là người đã trồng
sâu gốc rễ phước đức rồi. Phật nói người như thế quyết định thành tựu nhất thiết chủng trí.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :
Thanh Tịnh Tuệ nên biết. Tánh Bồ đề viên mãn.
Không lấy cũng không chứng.
Không Bồ tát chúng sanh. Lúc Giác và chưa giác. Thứ lớp có sai khác. Chúng sanh ngại vì biết. Bồ tát ngại vì Quán.
Đăng địa tròn tịch diệt. Không trụ tất cả tướng. Đại Giác đều viên mãn. Gọi tùy thuận hoàn toàn. Hậu thế các chúng sanh. Tâm không sanh hư vọng. Phật nói người như thế.
Là Bồ tát hiện đời.
Cúng dường mười phương Phật.
Công đức đã tròn đầy. Dù có nhiều sai biệt. Phương tiện của Như Lai.
TRỰC CHỈ
1. Hiện tượng sanh từ bản thể. Tùy duyên sanh trong bất biến. Cảnh mộng sanh từ cõi thực, khách về chủ ở luôn. Bụi mờ lắng xuống, hư không trường tồn. Vấn đề “mê” “giác” cũng lại như vậy. Ngoài
cảnh giới “toàn mê” tất còn có cảnh giới “Viên Giác “. Thế cho nên thực lý mà nói DIỆU TÁNH VIÊN GIÁC vốn không là gì cả. Nó
là cái tánh ngoài các thứ tánh chấp ngã chấp pháp, các thứ tánh biến kế, y tha cần viễn ly phần còn lại không viễn ly được, gọi cái đó là DIỆU TÁNH VIÊN GIÁC vậy thôi.
Kinh nói: “Viên Giác tư tánh phi tánh tánh hữu”. DIỆU TÁNH VIÊN GIÁC VỐN LÀ PHI TÁNH.
Tùy thuận tánh Viên Giác đồng nghĩa với tùy thuận pháp tánh. Người tu Viên Giác gọi là xứng tánh khởi tu. Cho nên cảnh giới Viên Giác không phải đối tượng sở chứng. Người tùy thuận Viên
Giác không có cái để được. Bởi vì “thật tướng là vô tướng”. Do vậy mà khi chứng nhập cảnh giới Viên Giác, không còn thấy có cảnh giới tịch diệt và người được tịch diệt.
2. Chúng sanh thường qua lại rong chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai Viên Giác, vậy mà không biết không hay. Cũng như những kẻ sanh manh đang hòa mình trong ánh sáng tươi mát diệu hiền muôn hồng nghìn tía của ngày xuân mà không hề thưởng thức được cảnh sắc mùa xuân rạng rỡ hữu tình.
Người xưa nói:
“Ỏ trong nước chớ nhọc công tìm nước.
Đứng trên non đừng phí sức tìm non”.
3. Vấn đề tùy thuận Viên Giác, nói một cách thông thường dễ hiểu là vấn đề chứng đắc. Như Lai Viên Giác Diệu Tánh là tánh bình
đẳng, là chân lý phổ biến. Cho nên chúng sanh, Bồ tát, Phật khi tùy thuận Viên Giác rồi thì tất cả bình đẳng không có gì sai khác.
Tuy nhiên, dựa trên công dụng hư vọng diệt trừ huyễn hóa hư vọng, có kẻ diệt người chưa; kẻ diệt nhiều, người diệt ít mà ước định địa vị, giả đặt mỗi địa vị một cái tên:
o Phàm phu tùy thuận Giác tánh.
o Nhị thừa tùy thuận Giác tánh.
o Bồ tát địa tiền tùy thuận Giác tánh.
o Bồ tát đăng địa tùy thuận Giác tánh.
o Như Lai tùy thuận Giác tánh.
Thế thì quả không sai khác, mà nhơn thì có sai khác. Nhơn đã sai khác thì dựa trên căn tánh và sức tinh tấn của mỗi người mà Như Lai Viên Giác Diệu Tánh dường như có sai khác. Ví như ngọc kim cương vốn không có nhiều màu, tùy góc đứng của người nhìn
ngắm mà màu sắc biến ảo dường như ngọc kim cương thực có nhiều màu.
Phàm phu vừa trừ được huyễn hóa lại đam mê vào “cảnh tịch tịnh”.
Bồ tát địa tiền diệt được “giải ngại” nhưng còn vướng mắc “kiến ngại”.
Bồ tát đăng địa thường giác thường chiếu dùng tâm ngại diệt chướng ngại. Ngại diệt hết rồi không thấy có người diệt ngại, ví như người tự cắt đầu mình… Lại nhận thức rằng: “Tất cả kinh điền như ngón tay chỉ trăng”…
Như Lai thì: tất cả chướng ngại là cứu cánh giác. Phiền não là Bồ đề. Sanh tử tức Niết bàn. Sử dụng Pháp Giới Hải Tuệ nhìn thấy pháp giới trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn diệt. Sanh tử và Niết bàn như mộng sự đêm qua…
Phải học Bát nhã, hành Bát nhã và sống trong Bát nhã để đủ sức quán chiếu:
“Tất cả pháp hữu vi.
Như mộng, huyễn, bóng bọt. Như sương như điện xẹt.
Như vậy mà tư duy”.
Tư duy như thế, rồi tự mình nhận định và xác định bằng cái tuệ đích thực của mình. Lúc bấy giờ hành giả có được cái nghị lực phi thường trước mọi biến thiên thành bại của vạn pháp. Hành giả sẽ là con người tự tại đến độ: “NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG”.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 5)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 5)

CHƯƠNG NĂM
ÂN ÁI THAM DỤC LÀ CĂN BẢN CỦA SỰ
LUÂN HỒI
Bấy giờ Bồ tát Di lặc đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Đấng đại bi Thế Tôn đã mở kho tàng bí mật, khiến đại chúng có được đạo nhãn, thâm ngộ luân hồi, phân biệt tà chánh, đối với đại Niết bàn có lòng chánh tín kiên cố, không thể rơi vào ảo tưởng với kiến chấp sai lầm.
Bạch Thế Tôn ! Bồ tát và chúng sanh đời sau muốn dạo chơi trong biển đại tịch diệt của Như lai phải đoạn căn bản luân hồi bằng cách nào? Luân hồi có bao nhiêu chủng tánh? Đường Bồ đề Phật tu tiến có những sai khác thế nào? Khi vào trần lao cần có những phương tiện chi trong sự nghiệp giáo hoá độ chúng sanh? Cúi mong Như Lai mở rộng lòng bi chỉ dạy cho các Bồ tát và chúng sanh có được tuệ nhãn sáng trong, gương lòng tỏ rạng hầu tiếp thu tri kiến Như Lai Vô thượng !
Phật dạy: Di lặc! Những lời ông hỏi rất có ý nghĩa, sẽ đem lại lợi ích cho
Bồ tát và chúng sanh.
Nầy, Di Lặc! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, vì ân ái tham dục mà tác tạo ra nguyên nhân và hậu quả của sự luân hồi. Trong thế giới có các loại chúng sanh như: sanh do thai, do trứng, do ẩm ướt, do biến hóa đều do
dâm dục mà hình thành tánh mạng. Vì vậy, cho nên biết rằng nguồn gốc của luân hồi chính là sự ái ân. Dục hỗ trợ cho ái, ái làm tăng trưởng dục thành ra chuỗi dài nhân quả, quả nhân cho sự luân hồi tương tục. Thế cho nên, chúng sanh ái mạng cũng tức là ái dục. Ai dục là ái nhơn, mà ái mạng là ái quả. Cảnh dục sanh khởi, có cảnh bằng lòng có cảnh trái ý, mà dấy niệm ghét yêu, tạo ra các thứ nghiệp ác. Do vậy, mà có đường ngạ quỷ,
súc sanh và địa ngục. Nhận biết dục là nguyên nhân của khổ đau, sanh làng nhàm chán, bỏ ác làm lành thì được thiện quả ở cõi nhơn thiên. Đến như hạng người nhàm chán ái dục, chuyện tu định xả và đam mê nơi đó thì cũng chỉ là tăng trưởng một phần thiện quả, vẫn chưa ra khỏi luân hồi, không thể thành thánh đạo. Vì thế, chúng sanh muốn thoát ly sanh tử ra khỏi luân hồi, phải trừ sạch khát ái. Các Bồ tát thị hiện sanh ở nhơn gian, không phải do gốc ái mà do lòng từ, vì muốn dạy cho chúng sanh xa lìa tham dục ái ân mà có mặt trong đường sanh tử. Chúng sanh đời sau xả hết các thứ dục, trừ bỏ ghét yêu thì mới bứng sạch gốc rễ luân hồi. Bấy giờ siêng năng cầu học tu tập cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC thì tâm được sạch trong bèn được mở mang tỏ ngộ.
Nầy, Di Lặc ! Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy vô minh, từ đó sanh ra năm hạng chủng tánh khác nhau căn cứ trên hai thứ chướng mà phước báo và tội báo khác nhau. Hai chướng là lý chướng và sự chướng. Lý chướng, chướng ngại trí hiểu biết nhận thức đúng chân lý. Sự chướng, do những hành vi bất thiện cho nên nối dài đường sanh tử thêm ra.
Hai chướng chưa đoạn trừ thì gọi đó là chủng tánh phàm phu hạng
NGƯỜI CHƯA THÀNH PHẬT.
Nếu đoạn hết tham dục, dứt trừ sự chướng, lý chướng chưa đoạn thì ngộ
nhập cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác gọi đó là chủng tánh NHỊ THỪA.
Có chí lớn muốn dạo chơi trong biển Đại Viên Giác Như Lai, phát nguyện dũng mảnh đoạn trừ hai chướng. Hai chướng tiềm phục thì sự nhận thức chân lý rộng sâu, chứng nhập Bồ tát cảnh giới, gọi là hạng người chủng tánh ĐẠI THỪA.
Sự chướng và lý chướng đã đoạn trừ trọn vẹn thì thể nhập NHƯ LAI VIÊN GIÁC cảnh giới vi diệu, tròn đủ Bồ đề và Đại Niết bàn.
Nầy, Di Lặc ! Tất cả chúng sanh ai cũng có khả năng chứng nhập Như Lai Viên Giác vi diệu. Tuy nhiên, trên đường tu hành người thiện tri thức cũng là một trợ duyên có tánh quyết định. Trở thành ngoại đạo, Nhị thừa hay
Đại thừa đều ảnh hưởng và tuỳ thuộc cái đạo lý và pháp tu hành của người thiện tri thức hướng dẫn, giáo hóa lúc mới phát tâm. Do vậy, pháp tu hành chia ra có “Đốn” có “Tiệm”. Nếu đủ duyên lành gặp được giáo lý Như Lai Vô Thượng dẫn dắt đi con đường chánh thì không luận căn cơ đều có thể thành tựu Phật quả. Nếu chẳng may, trong lúc mới phát tâm tu hành gặp nhằm người tà kiến hướng dẫn vào đạo, bày vẻ pháp tu sai lạc chánh nhơn, mịt mờ chân lý. Hạng người như thế, gọi là chủng tánh ngọai đạo.
Dù bị sư ngoại đạo hướng dẫn tu hành lầm lạc, lỗi đó không phải ở chúng sanh, mà tại vì lúc phát tâm không vận dụng trí tuệ, đắn đo cân nhắc, vì vậy, mà có năm chủng tánh khác nhau cùng hướng về một mục đích: Vô Thượng Bồ đề.
Khác với hạng người trong năm chủng tánh kia, Bồ tát vận dụng đại bi phương tiện thị hiện các thứ hình tướng hoặc từ hoặc uy, lẫn lộn trong thế gian đồng sự với chúng sanh để khai ngộ. Giáo hóa khiến cho thành tựu Phật đạo. Việc làm đó của Bồ tát phát xuất từ nguyện lực thanh tịnh vô thỉ nhằm độ thoát chúng sanh. Chúng sanh đời sau đối với Như Lai Viên Giác nên khởi tâm tăng thượng, phát đại nguyện rằng: tôi nguyên trụ trong Như Lai Viên Giác gần gũi thiện tri thức, tránh xa ngoại đạo và Nhị Thừa. Nguyện đoạn trừ các chướng lần lần tiến lên pháp điện thanh tịnh đại Viên Giác trang nghiêm.
Bấy giời đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Di Lặc ông nên biết. Tất cả các chúng sanh. Không được đại giải thoát. Đều do lòng tham dục.
Mà rớt trong sanh tử. Nếu dứt hết ghét yêu. Và tham, sân, si, mạn.
Không luận chủng tánh nào. Đều được thành Phật đạo. Hai chướng dứt hết rồi.
Cầu thầy được chứng ngộ. Tuỳ thuận Bồ tát nguyện.
An trú Đại Niết bàn. Mười phương chư Bồ tát. Đều dùng nguyện đại bi. Thị hiện vào sanh tử. Người tu hành hiện tại. Và Chúng sanh đời sau. Siêng năng trừ ái kiến. Đại Viên Giác được về.
TRỰC CHỈ
Luân hồi là một chân lý phổ biến. Giáo lý luân hồi không phải dành riêng cho những người có đức tin Phật. Hiện tượng vạn hữu đều ở trong quy luật tuần hoàn luân hồi. Nói theo thuật ngữ của Phật giáo, vô tình chúng sanh, hữu tình chúng sanh đều chịu sự chi phối của quy luật luân hồi.
Xuân, hạ, thu, đông, sanh, trụ, dị, diệt, thành, trụ, hoại, không là biểu hiện sự luân hổi của vạn vật vô tình, sanh, già, bệnh, chết là biểu hiện luân hồi của chúng sanh hữu tình, cho nên đúng chân lý thì luân hồi không phải là sự kiện đáng lo sợ. Vì đó là quy luật là chân lý.
Sự luân hồi mà Bồ tát Di Lặc yêu cầu Phật khai thị ở đây là thứ luân hồi trong sáu nẻo trực tiếp chĩu sự chi phối khổ não ưu bi của các cõi trời, người, a tu la, quỷ, súc sanh và địa ngục.
Tạo nghiệp luân hồi có tương quan với chủng tánh. Mỗi chủng tánh là mỗi căn cơ sai khác. Chủng tánh phàm phu thường tạo nghiệp nhơn luân hồi trong thế giới lục phàm. Chủng tánh Nhị thừa và chủng tánh Đại thừa chỉ tạo nhân luân hồi trong cảnh giới Tứ thánh mà thôi.
Ai ân và tham dục là nguyên nhân của luân hồi sanh tử ưu bi khổ não. Ai ân nuôi lớn tham dục, tham dục làm tăng trưởng ái ân kết thành chuỗi dài nhân quả tương tục.
Sanh mạng do dục mà có. Dục là nhân của sanh mạng, sanh mạng là quả của dục. Vì vậy, ái mạng tức là ái dục, chẳng qua ái mạng là ái quả, còn ái dục là ái nhân.
Cảnh ái dục có bằng lòng và trái ý, từ đó sanh khởi ý niệm ghét thương thân sơ thủ xả tạo ra nhiều nghiệp ác. Do vây có ra các đường ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục.
Biết tai hại của ái dục phát tâm tu các thiện nghiệp thì được quả báo cõi nhơn thiên. Đến như hạng người nhàm chán ái dục tu thiền định “xả”, một thứ định cao nhất trong tứ thiền, nhưng nếu lệch đi một niệm khởi ý đam mê sự “thanh tịnh” thì vẫn chưa ra khỏi luân hồi. Bởi vì “đam mê” là một hình thức ái dù là “ái” thanh tịnh, “ái” Bồ đề, Niết bàn.
Thế cho nên, tất cả chúng sanh muốn ra khỏi luân hồi sanh tử ưu bi cần phải đoạn trừ gốc ái.
Bồ tát, Phật “tùy nguyện” thọ sanh hiện vào các quốc độ trong mười phương để hóa độ chúng sanh. Sự thọ sanh của các Ngài không có bị khổ não ưu bi chi phối. Cho nên sự thọ sanh đó, thừơng được kín trọng xưng gọi bằng cái từ “thị hiện”. Thực lý, thì đó cũng là một hình thức luân hồi của những bậc đại giác, luân hồi trong tỉnh thức không bị chi phối bởi lực hấp dẫn của vô minh.
Do lẽ đó, nên biết rằng: Bồ tát, thành Phật không phải là thành “cái không có gì hết” “cái rỗng không” ở một cõi “trống trơn” vắng lặng…
A La Hớn là con người. Thành A La Hớn từ con người. Duyên Giác, Bồ
tát cho đến Vô thượng Bồ đề Phật vẫn là con người và các quả vị đó thành tựu từ con người.
Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Cho nên gọi là “chủng tánh” thực lý không có chủng tánh nào cố định. Dù không cố định, nhưng có thể có ra năm thứ chủng tánh khác nhau. Yếu tố để ước định phân chia thành chủng tánh là SỰ CHƯỚNG và LÝ CHƯỚNG.
Sự chướng cũng gọi PHIỀN NÃO CHƯỚNG. Thứ chướng nầy thường qua lại trong sáu căn, biểu hiện thông qua ba nghiệp: thân, miệng và ý của con người. Sát, đạo, dâm: vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu; tham, sân, si là những biểu hiện cụ thể là căn bản của sự chướng. Do vậy, sự chướng nối dài đường sanh tử luân hồi ưu bi khổ não thêm ra.
Lý chướng còn gọi SỞ TRI CHƯỚNG. Thứ chướng nầy cản trở sự hiểu biết trong sáng sự nhận thúc đúng chân lý, khiến cho con ngừơi mê mờ chân lý không phân chánh tà, thiện ác, triền phược, giải thoát. Do vậy, đóng bít cửa Niết bàn, cắt đứt đường Bồ đề Phật.
Đối với sự chướng, lý chướng còn chưa có ý thức đoạn trừ, hạng người như thế gọi là CHỦNG TÁNH PHÀM PHU.
Dứt trừ sự chướng, chưa đoạn lý chướng, hạng người như thế gọi là
CHỦNG TÁNH NHỊ THỪA.
Có chí lớn muốn dạo chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai Viên Giác, dũng mãnh đoạn trừ hai chướng. Khi hai chướng tiềm phục, trí tuệ rộng sâu trong tiến trình nhận thức chân lý… Thể nhập Bồ tát cảnh giới có sức tự tại đối với vạn pháp. Như thế gọi là hạng người CHỦNG TÁNH ĐẠI THỪA.
Trên đường tu, người thiện tri thức có ảnh hưởng đến cuộc đời mình. Trong lúc mới phát tâm chẳng may gặp phải người tà kiến khuyến hóa tu hành, sai lạc chánh nhơn thành Phật, van thần, khấn quỷ, trì tà chú luyện âm binh. Ngừơi như thế lạc vào CHỦNG TÁNH NGOẠI ĐẠO.
Nếu gặp duyên lành trở về đường chánh đạo được thiện tri thức dạy chánh pháp tu học chánh nhơn người nầy có thể phát huy thiện nghiệp tiến lên hoặc cũng có thể tiến xa hơn nữa, cho nên gọi hạng người ở vào trường hợp như thế là CHỦNG TÁNH BẤT ĐỊNH.
Tất cả chúng sanh đều có khả năng tu hành để thành tựu đến quả vị Phật. Dù bị tà sư ngoại đạo dẫn dắt sai lạc chánh pháp, nhưng lỗi đó cũng không quy trách cho tà sư, cũng không phải vô cớ mà người nầy đi vào con đường sai lạc ấy. Điều đó phải hiểu rằng nó có tương quan mật thiết trong quá trình gieo trồng hạt giống Bồ đề của mọi người có cạn có sâu. Vì vậy mà có năm chủng tánh sai khác.
Cùng một sự kiện phát tâm, người trí phải chín chắn suy nghĩ về hành động của mình va mục đích của sự phát tâm đó. Phát tâm TÀ, CHÁNH, CHƠN, NGỤY, ĐẠI, TIỂU, THIÊN, VIÊN kết quả khác nhau như đen với trắng.
Người đệ tử Phật muốn rong chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai Viên Giác chỉ có thể phát tâm CHÁNH, CHƠN, ĐẠI và VIÊN. Phát tâm như vậy sẽ không lệch mục tiêu cao đẹp của người con Phật đang tiến bước trên đừơng Bồ đề, Niết bàn vô thượng.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 4)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 4)

CHƯƠNG BỐN
CHƯA RA KHỎI LUÂN HỒI LUẬN BÀN VIÊN GIÁC TÁNH THÌ TÁNH VIÊN GIÁC TRỞ THÀNH ĐỒNG TÁNH LUÂN HỒI
1. Bấy giờ, Bồ tát Kim Cang Tạng đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Như Lai Thế Tôn vì Đại chúng tuyên dạy về NHƯ
LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM và PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA cùng phương tiện TIỆM TIẾN, khiến cho thính chúng trong pháp hội này bệnh mù lòa được sáng tỏ con mắt tuệ tăng trưởng hào quang.
Bạch Thế Tôn ! Nếu như chúng sanh xưa nay đã là Phật thì cớ gì lại có tất cả vô minh? Còn như chúng sanh xưa nay vốn có vô minh, vậy do nhơn duyên gì Như Lai lại nói chúng sanh xưa nay là Phật ? Nếu tất cả chúng sanh vốn đã thành Phật, sau đó lại sanh
khởi vô minh, vậy tất cả chư Phật chừng nào sanh khởi vô minh trở lại. Cúi mong Như Lai thương xót mở kho tàng bí mật, khiến cho Bồ tát và chúng sanh đời sau được nghe pháp môn liễu nghĩa Đại thừa kinh điển ngõ hầu trừ sạch các mối nghi.
Phật dạy: Kim Cang Tạng ! Ông hỏi Như Lai về những giáo nghĩa bí mật thậm thâm liễu nghĩa Đại thừa để cởi mở những gút nghi ngờ cho chúng sanh hậu thế.
Này, Kim Cang Tạng ! Trong thế giới tất cả những sự kiện: bắt đầu, kết cuộc, phía trước, mặt sau, sanh ra, chết mất, chỗ có vật, chỗ trống không, tụ hợp, tan rã, dấy động, ngưng bặc, niệm niệm tương tục, xoay vần, qua lại, khen chê, lấy, bỏ… đều là hiện tượng lưu chuyển luân hồi. Nếu CHƯA RA KHỎI LUÂN HỒI, LUẬN BÀN VIÊN GIÁC TÁNH THÌ TÁNH VIÊN GIÁC TRỞ THÀNH ĐỒNG TÁNH LUÂN HỒI. Ví như mắt giật thấy mặt nước đứng lặng rung rinh, mắt sững thấy đốm lửa quay thành cái vòng tròn liên tục, mây bay thấy trăng xê dịch, thuyền đi thấy bờ chạy. Vì vậy, muốn ra khỏi luân hồi là không thể có.
Kim Cang Tạng ! Mắt giật, mắt sửng, mây bay, thuyền đi chưa ổn định được, dù có muốn cho mặt nước đừng rung rinh, vòng tròn của đốm lửa hết trăng ngừng xê dịch, bờ không chạy ngược hãy còn không được, huống chi cái tâm luân hồi sanh tử cấu nhiễm
chưa từng thanh tịnh mà nhìn VIÊN GIÁC THANH TỊNH không trở thành lưu chuyển được sao? Vì thế, mà các ông nêu ba câu nạn vấn hoàn toàn phát xuất từ ý tưởng mê lầm !
2. Kim Cang Tạng ! Ví như mắt lòa vọng thấy hoa đốm. Lòa hết, không nên hỏi rằng lòa đã hết, chừng nào bóng lòa sanh trở lại. Vì sao ? Vì lòa và hoa đốm vốn không có, nó không phải là hai thứ có thực chất đối đãi nhau. Cũng như hoa đốm, diệt trong hư vô, không được hỏi rằng hư vô chừng nào sanh hoa đốm nữa. Vì sao? Vì hư vô vốn không có hoa. Cho nên không có vấn đề khởi sanh hay diệt mất. Sanh tử và niết bàn cũng không có khởi sanh hay khởi diệt. Viên giác Diệu Tâm màu nhiệm không như hoa đốm và bóng lòa.
Kim Cang Tạng ! Nên biết : hư vô không có lúc tạm có, cũng không có lúc tạm không, huống chi là NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM há lại theo sanh tử hay theo Niết bàn mà có sanh, có diệt! VIÊN GIÁC DIỆU TÂM bất động và bình đẳng, cũng như tánh hư vô vốn vĩnh cữu bất động và bình đẳng.
3. Nầy, Kim Cang Tạng ! Ví như nấu lọc quặng vàng. Vàng không phải do nấu có. Nhưng khi nấu lọc đã thành vàng, vàng không thành quặng trở lại, dù trải số kiếp bao lâu, tánh vàng cũng không hoại. NHƯ LAI VIÊN GIÁC cũng vậy, không nên nói: rằng xưa kia không sẵn có. Trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM không có cái tên Bồ đề, Niết bàn, cũng không có vấn đề thành Phật hay không thành Phật, không có luân hồi hay chẳng luân hồi. Chỉ
vì hàng Thanh Văn, không thể tiếp thu, không thân chứng được, họ chỉ ngăn giúp được phần vô minh thô trọng ở thanh tâm, ngôn ngữ mà hiện ra cảnh giới an tịnh gọi là Niết bàn. Nếu dùng tâm tư duy nhận xét suy lường cảnh giới VIÊN GIÁC NHƯ LAI, chẳng khác nào lấy lửa đom đóm mong đốt núi Tu Di sẽ chẳng có tác dụng gì! Đem cái tâm luân hồi, sử dụng cái thấy biết luân hồi mong vào
biển đại tịch diệt NHƯ LAI VIÊN GIÁC, hoàn toàn không có kết quả. Vì vậy, Như Lai dạy: tất cả Bồ tát và chúng sanh đời sau trước hết phải đoạn tận gốc rễ luân hồi vô thỉ.
4. Nầy, Kim Cang Tạng ! Có khởi niệm tư duy là có khởi tâm. Đó chỉ là bóng dáng của lục trần, không phải tâm thể chân thật. Nó huyễn giả giống như hoa đốm! Dùng tâm tư duy ấy luận bàn về cảnh giới VIÊN GIÁC PHẬT, chỉ là thứ vọng tưởng loanh quoanh, không sao thấu đáo được, chẳng khác gì hoa đốm trong hư vô, lại mong chờ kết trái, là chuyện ảo tưởng hoang đường ! Tâm hư vọng thô phù quá nhiều lệch lạc xa vời chân lý thì làm sao hiểu được cảnh giới VIÊN GIÁC đích thực rõ ràng. Cho nên những câu nạn vấn của các ông yêu cầu Như Lai giải đáp không phải là lời
nạn vấn có giá trị đứng đắn sâu xa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Kim Cang Tạng nên biết. Tánh tịch diệt Như Lai. Chưa từng có thỉ chung. Nếu lấy tâm luân hồi.
Tư duy Viên Giác Phật. Chỉ quanh quẩn luân hồi. Không thể vào biển Giác. Ví như nấu quặng vàng. Vàng không do nấu có.
Dù xưa nay là vàng. Nhưng phải nhờ nấu lọc. Gạn hết quặng khoáng ra
Vàng không thành quặng nữa.
Sanh tử với Niết bàn. Phàm phu và chư Phật. Tướng hoa đốm hư vô. Tư duy đã là vọng.
Huống nạn hỏi loanh quoanh.
Quán triệt thâm lý này. Nhiên hậu cầu Viên Giác.
TRỰC CHỈ
1. Ba câu hỏi của Bồ Tát Kim Cang Tạng mới nghe qua tưởng chừng như khó mà trả lời cho rốt ráo. Dường như bao nhiêu chân lý đã gom vào đó cả rồi. Thực lý mà nói, đó vẫn là chân lý. Nhưng chân lý đó là thứ chân lý của người chỉ biết hiện tượng vạn pháp bên
mặt duyên sanh tương đối, chỉ biết nước qua sóng mòi lăng tăng ào ạt lô nhô mà chưa biết cái phẳng lặng như gương của nước, chỉ biết vàng qua bông tai, cà rá, kiền cổ, vòng tai mà chưa biết cái giá trị vĩnh cữu bất biến của vàng. Nói cách khác, sư hiểu biết như vậy là biết một mà chẳng biết hai. Vì vậy mà Như Lai quở: “ba câu nạn vấn của Bồ Tát Kim Cang Tạng phát xuất từ ý tưởng mê lầm”.
Phật dạy:”chưa ra khỏi luân hồi mà luận bàn Viên Giác Tánh thì
Tánh Viên Giác trở thành đồng tánh luân hồi”.
Lời dạy đó của đức Phật, thâm sâu và bao quát, nói lên nỗi lòng chua xót, khó khăn lo âu da diết trong sự nghiệp giáo hoá chuyển mê khai ngộ.
Nói cho người bệnh mắt giật hiểu rằng mặt nước vốn không có rung rinh. Giải thích cho người mù lòa biết cái quầng tròn năm
màu quanh ngọn đèn không thật có. Sự thật rõ ràng như thế, nhưng
đối với hạng người ấy khó mà nói cho họ nghe, khi bệnh căn của họ chưa hết.
Trước, sau, sanh, diệt, bắt đầu, chung cuộc, tụ họp, chia ly, có, không, yêu, ghét… đều là hiện tượng biểu hiện của sự luân hồi. Tất cả chúng sanh sống quay cuồng trong hiện tượng duyên sanh
huyễn hóa, chỉ cho chúng sanh nhận biết thế nào là huyễn hóa, thế
nào là duyên sanh là việc rất khó khăn.
2. Như Lai Viên Giác tự tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên của sự vật vô tình. NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là tánh thanh tịnh bản nhiên của chúng sanh hữu tình. Tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Viên Giác không có lúc tạm có cũng không có lúc tạm không, cho nên Như Lai nói: CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT.
Vô minh không có tự tánh, ví như hoa đốm trong hư không. Hoa đốm chỉ có với người bị bệnh mắt lòa. Mắt hết bệnh lòa thì hoa đốm thì hoa đốm không có lý do để mà sanh khởi. “Thật tánh của vô minh là Phật tánh”. Vì vậy Như Lai vẫn có lý do để nói: CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT”
3. Cảnh chiêm bao không hiện trở lại khi người đã thức. Hoa đốm không sanh khởi trước người đôi mắt sáng suốt sạch trong. Vàng không thành quặng trở lại khi đã nấu lọc tinh thuần. Như Lai là Đại Giác, cho nên không bao giờ chư Phật sanh khởi vô minh trở lại.
Thành tựu : Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, tức là về đến Bồ đề tự tánh, Niết bàn diệu tâm đến nguyên quán của mình mà mình xa rời lưu lạc từ bấy lâu nay. Do vậy, Như Lai nói: Trong cảnh giới Như Lai Viên Giác Diệu Tâm không có thành Phật hay không thành
Phật. Không có luân hồi hay không luân hồi. Không có cái từ Bồ đề Niết bàn để khiến cho ai ham mộ…
4. Thể nhập cảnh giới Viên Giác không thể dùng tâm phân biệt tạp tưởng để suy lường. Vọng tâm, tạm tưởng suy lường cảnh giới
Viên Giác thanh tịnh cũng như lấy lửa đóm đóm đem đốt núi Tu di dù có nhọc công nhưng không đem lại kết quả gì.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 3)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 3)


CHƯƠNG BA
CHÁNH NIỆM TƯ DUY LÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP TIỆM TIẾN
Bấy giờ Bồ tát Phổ Nhãn đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn vì Bồ tát và chúng sanh đời sau dạy cho chúng con về cách tu hành tiệm tiến. Chúng con phải hành phương tiện chi, tư duy thế nào cho đúng để có thể ngộ nhập. Nếu vận dụng phương
tiện không đúng, tư duy sai lệch, sau khi nghe tam muội thậm thậm vi diệu như thế, e rằng không bỏ rối rắm mịt mờ, khó mà thể nhập VIÊN GIÁC TÂM thanh tịnh. Cúi mong Như Lai thương xót hàng Bồ tát và chúng
sanh đời sau vận dụng phương tiện, dạy cho chúng con cách thức tu hành tiệm tiến.
Phật dạy! Phổ Nhãn ! Thiện ý của ông rất tốt. Ông vì các Bồ tát và chúng sanh đời sau tha thiết hỏi Như Lai về cách tu hành tiệm tiến. Phổ Nhãn! Ông hãy lắng nghe Như Lai sẽ vì ông mà nói:
1. Phồ Nhãn ! Hàng tân học Bồ tát và chúng sanh đời sau muốn cầu được NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thì cần phải vĩnh ly các huyễn. Trước hết, thực hành pháp CHỈ, ở chỗ yên tĩnh và
nghiêm trì giới cấm. Tiếp đến tu QUÁN, vận dụng quán trí, tư duy quán chiếu về thân. Thân ta kết hợp bởi: tóc, lông, răng, móng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước dãi, mồ hôi cáu bợn, da sừng, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ, óc, hoành cách mạc, gan, mật, ruột già, ruột non, bao tử, bàng quang, đàm trắng, đảm đỏ… Truy nguyên, tất cả do đất, nước, gió, lửa… tứ đại nương gá mà thành. Một khi tứ đại tan rã thì còn gì để gọi là thân. Quán chiếu tư duy như vậy, bèn tỏ ngộ rằng thân này không có thực thể, chỉ là cái tướng hòa hợp tạm bợ mong manh, đồng như huyễn hóa. Lại tư duy rằng: Huyễn thân có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
) huyễn cảnh có sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) tứ đại trong và tứ đại ngoài hòa hợp mà vọng có nhận thức tư duy, bèn gọi cái tác dụng tư duy nhận thức là tâm. Tâm hư vọng đó, nếu không có sáu trần thì tâm đó không còn điều kiện hiện hữu. Sáu
trần thì thường ở trong trạng thái phân giải và tan rã liên tục, chẳng có gì đảm bảo sự tồn tại của trần. Tư duy quán chiếu thế rồi, chợt
tỏ ngộ rằng: thân tâm, căn trần đều chung quy một con đường hoại diệt, rốt ráo chẳng có gì.
Này, Phổ Nhãn ! Tu quán như thế rồi, nhận thức rằng: Huyễn thân diệt thì huyễn tâm cũng diệt. Huyễn tâm diệt thì huyễn trần cũng diệt, Huyễn trần diệt thì ý niệm diệt huyễn cũng diệt. Cái gì huyễn diệt hết, cái không phải huyễn thì không bị diệt. Ví như lau gương, bụi bậm hết, thể sáng hiện ra. Nên biết: thân tâm đều là huyễn cấu. Diệt hết huyễn cấu thì mười phương thuần một thể thanh tịnh. Ví như Ma ni bảo châu thanh tịnh ánh hiện năm màu, tùy góc đứng của họ mà kẻ ngu si cho rằng Ma ni bảo châu thật có năm màu.
2. Này, Phổ Nhãn ! Tánh thanh tịnh của Như Lai Viên Giác Diệu Tâm hiện ở thân tâm chúng sanh tùy chủng loại mà tương ứng. Những kẻ ngu si cho rằng: VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thật có cái tướng thân tâm, do vậy mà không thề viễn ly huyễn hóa.Thế cho nên Như Lai nói thân tâm là huyễn cấu. Người ly huyễn cấu Như Lai gọi là Bồ tát. Cấu diệt, ly vong, ý niệm cấu ly vắng lặng, lúc bấy giờ Bồ tát thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MUỘI
3. Này, Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh đời sau chứng nhập Như huyễn tam muội ấy rồi, vĩnh ly ảnh tượng, bấy giờ không gian vô tận thời gian vô cùng chỉ còn thuần một thề VIÊN GIÁC hằng hữu hiển hiện. VÌ VIÊN GIÁC tròn đầy sáng suốt cho nên tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh cho nên tánh thấy thanh tịnh, vì tánh thấy thanh tịnh cho nên nhãn căn thanh tịnh, vì nhãn căn thanh tịnh cho nên nhãn thức thanh tịnh, vì nhãn thức thanh tịnh cho nên tánh
nghe thanh tịnh, vì tánh nghe thanh tịnh cho nên nhĩ căn thanh tịnh, vì nhĩ căn thanh tịnh cho nên nhĩ thức thanh tịnh, vì nhĩ thức thanh tịnh cho nên tánh biết thanh tịnh… cho đến tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều thanh tịnh như vậy.
Phổ Nhãn nên biết: Vì sáu căn thanh tịnh cho nên sắc trần thanh tịnh, vì sắc trần thanh tịnh, nên thanh trần thanh tịnh, vì thanh trần thanh tịnh nên hương, vị, xúc trần cũng thanh tịnh như vậy. Và khi lục trần thanh tịnh rồi thì địa đại thanh tịnh, vì địa đại thanh tịnh cho nên thủy đại thanh tịnh, vì thủy đại thanh tịnh, hỏa đại, phong đại, không đại,kiến đại và thức đại cũng thanh tịnh. Và vì thất đại thanh tịnh cho nên mười hai xứ, mười tám giới, hai mươi lăm hữu thanh tịnh. Vì xứ, giới, hữu thanh tịnh cho nên thập lục, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cọng pháp, tam thập thất trợ đạo phẩm thanh tịnh… cho đến tám muôn bốn ngàn đà la ni môn tất cả thanh tịnh.
Này, Phổ Nhãn ! Tất cả là thật tướng. Vì tánh của tất cả vốn thanh tịnh cho nên một thân thanh tịnh, vì một thân thanh tịnh cho nên nhiều thân cũng thanh tịnh như vậy… cho đến mười phương chúng sanh đồng chung trong một thể VIÊN GIÁC thanh tịnh.
Này, Phổ Nhãn ! Một thế giới thanh tịnh cho nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh như vậy cho đến khắp mười phương, suốt ba đời tất cả bình đẳng thanh tịnh và bất động.
Này, Phổ Nhãn ! Vì hư không bình đẳng bất động mà biết giác
tánh bình đẳng bất động. Vì tứ đại bình đẳng bất động mà biết giác tánh bình đẳng bất động. Tám muôn bốn ngàn đà la ni môn bình đẳng bất động cho nên biết giác tánh bỉnh đẳng bất động. Vì giác tánh thanh tịnh bất động biến khắp pháp giới cho nên biết lục căn biến khắp pháp giới, vì lục căn biến khắp pháp giới nên lục trần biến khắp pháp gới, vì lục trần biến khắp pháp giới nên thất đại biến khắp pháp giới cho đến đà la ni môn cũng biến khắp pháp
giới.
4. Phổ Nhãn ! Do vì tánh VIÊN GIÁC nhiệm mầu kia biến khắp pháp giới cho nên tánh của căn của trần không hủy hoại nhau, không lộn lạo nhau. Vì tánh của căn của trần không hủy hoại, không lộn lạo cho nên đà la ni môn không hoại không tạp. Ví như thắp trăm ngàn ngọn đèn trong một ngôi nhà, ánh sáng của từng ngọn đèn viên mãn không hủy hoại nhau và không lộn lạo nhau.
5. Này, Phổ Nhãn ! Thành tựu VIÊN GIÁC rồi, Bồ tát không dính vướng với trói buộc, không mong cầu cởi mở, không nhàm chán sanh tử, không ham mộ Niết bàn, không kính người trì giới, không hủy mạ người phạm giới, không xem trọng người tu lâu, không khinh bạc người sơ cơ vào đạo. Vì sao ? Vì tất cả là một thể giác. Ví như ánh sáng của mắt nhìn xem tiền cảnh, ánh sáng tròn đầy khắp giáp mà không có ghét thương. Vì sao ? Vì thể sáng của mắt không hai.
6. Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh ở đời sau tu tập VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thành tựu, mà nên xem như không tu và không thành tựu. Vì sao ? Vì thế VIÊN GIÁC thường khắp chiếu mà thường tịch diệt, không có tướng hai. Ở trong đó trăm ngàn muôn ức a
tăng lỳ, bất khả thuyết hằng hà sa số thế giới của chư Phật như hoa đốm trong không, loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly, không buộc không mở. Lúc bấy giờ, chợt thấy rằng: “Chúng sanh xưa nay là Phật” . Sanh tử, Niết bàn như chuyện mộng đêm qua. Quả sở
chứng không được, không mất, không lấy, không bỏ. Người chứng đắc không TÁC, không CHỈ, không NHẬM, không DIỆT. Trong cái gọi là chứng , không năng không sở, hoàn toàn không có cái để chứng, cũng không có người được chứng. Vì sao ? Vì tánh của tất cả pháp bình đẳng thanh tịnh bản nhiên, không hủy hoại nhau.
Này, Phổ Nhãn ! Các hàng Bồ tát nên tu hành như vậy, tiệm tiến là như vậy, tư duy như vậy, trì trụ như vậy và phương tiện là như vậy. Như vậy mà khai ngộ, cầu học pháp như vậy thì sẽ không lầm lạc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :
Phổ Nhãn ông nên biết. Tất cả các chúng sanh. Thân tâm đều như huyễn. Thân thuộc về tứ đại.
Tâm là bóng lục trần. Tứ đại thể rời rạc.
Người ! Thật chất là ai ?
Tiệm tu, tu như vậy. Tất cả sẽ thanh tịnh. Khắp pháp giới bất động.
Không tác, chỉ, nhậm, diệt. Cũng không người năng chứng. Tất cả thế giới Phật.
Như hoa đốm trong không.
Ba đời đều bình đẳng. Rốt ráo chẳng đến đi. Sơ phát tâm Bồ tát.
Và hậu thế chúng sanh. Muốn tìm vào Phật đạo. Nên như thế tu hành.
TRỰC CHỈ
1. Ở chương một và chương hai, đức Phật dạy cho Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền phương pháp tu “Đốn”. Đốn là thẳng tắp đạt mục đích nhanh, không lệ thuộc thời gian. Chân lý là như thế, nhưng thực hiện nếp sống đúng, sống hợp chân lý để thành tựu và thọ dụng được cái kết quả đó thì hoàn toàn còn tùy thuộc ở con người quan trọng hơn nữa là căn tánh của con người. Bởi vì căn tánh con người có bậc thượng, bậc trung và bậc hạ.
Đốn là pháp môn tu chỉ có bậc tối thượng lợi căn mới thực hành nổi. Nói một cách có vẻ bi quan hơn thì đó chỉ là một chân lý. Chân lý để cho con người đặt thành mục tiêu làm chỗ dựa cho lý tưởng mà muốn đến đó chúng ta phải đi bằng phương tiện “TIỆM TIẾN “, đi một cách từ từ. Phải đi bằng CON ĐƯỜNG TU TẬP TIỆM TIẾN CHÁNH NIỆM TƯ DUY.
Trước hết thực hành Xa Ma Tha, tức là CHỈ để loại bỏ tạp tưởng lăng xăng loạn động. Công dụng của pháp tu CHỈ làm cho tâm yên ổn chặn đứng vọng niệm do tiếp xúc quá nhiều ngoại cảnh trong cuộc sống hàng ngày. Tạo được hoàn cảnh tốt, ở một nơi yên tĩnh vắng vẽ, giữ gìn cấm giới đã thọ trì, thúc liễm thân khẩu ý, thì
công dụng của CHỈ được phát huy hiệu quả cao.
Giai đoạn hai tu QUÁN. Quán là vận dụng quán trí để xem xét đánh giá một sự vật một đối tượng bằng cái thấy biết của trí soi rọi vào trong, không thấy biết bằng mắt quan sát bên ngoài, Nói cách khác, QUÁN là cái thấy bằng tư tưởng và biết cũng bằng tư tưởng, cho nên “Quán” thường đi đôi với “tưởng” . Quán tưởng khác hơn tưởng tượng tầm thường. Tưởng tượng tầm thường người ta có thể tưởng tượng những gì vô căn cứ, tưởng tượng viễn vông. Quán tưởng phải y cứ chánh pháp. Quán tưởng có mục tiêu và khi quán tưởng thành tựu là lúc phát hiện chân lý thực tiễn, sự thật cụ thể của hiện tượng vạn pháp trên cõi đời.
Trước hết “quán” về thân. Thân là một tổng thể kết hợp bởi các thứ nhơ nhớp: tóc, lông, răng, móng… truy nguyên đáo để do địa, thủy, hỏa, phong… duyên khởi mà hình thành. Nó rất tạm bợ mong manh, như huyễn, như hóa… Dù thân có sáu căn, có công năng xúc đối với sáu trần cảnh bên ngoài ở giữa sanh ra sáu thứ nhận thức bèn gọi cái công năng nhận thức đó là ” Tâm”. Tâm đó chỉ là bóng dáng của sáu trần lưu lại…
Tư duy quán chiếu như vậy để đi đến nhận thức kết luận rằng: Thân tâm, cảnh giới xét đến cùng tột chỉ là pháp huyễn hư chung quy hoại diệt thực chất chẳng có gì (thân vô ngã).
Thứ đến, quán chiếu và nhận thức rằng: Huyễn thân diệt thì huyễn tâm diệt, huyễn tâm diệt huyễn cảnh cũng diệt… cho đến ý niệm diệt huyễn cũng diệt.
Quán chiếu tư duy như vậy, hành giả tỏ ngộ rằng: Thân tâm cảnh giới tất cả là pháp như huyễn do các duyên nương gá mà tồn tại trong giấc mộng dài, thế sự…
2. Lại tư duy rằng: Như Lai Viên Giác Diệu Tâm hiện vào thân tâm chúng sanh tùy chủng loại mà tương ứng.
Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, không phải tâm Phật, không phải tâm Bồ tát, không phải tâm Duyên Giác, không phải tâm Thanh Văn… cho đến không phải tâm súc sanh, tâm ngạ quỷ, hay tâm địa ngục. Nhưng Như Lai Viên Giác Diệu Tâm cũng là tâm Phật,
cũng là tâm Bồ tát, cũng là tâm Duyên Giác, tâm Thanh Văn… cho đến cũng là tâm súc sanh, tâm ngạ quỹ và tâm địa ngục. Ví như tín hiệu phát sóng của đài Vô tuyến truyền hình, tuỳ tính chất tốt xấu của máy thu mà âm thanh màu sắc đen trắng… tốt xấu khác nhau. Người hiểu đúng, biết rõ tín hiệu của đài phát sóng không có nhiều dị dạng trong âm thanh màu sắc.
Qua tư duy đó, hành giả tỏ ngộ rằng thân tâm là huyễn cấu, người ly huyễn cấu Như Lai gọi đó là Bồ tát.
Tiến thêm một bước: cấu diệt ly vong, ý niệm CẤU, LY vắng lặng đó là lúc thể hiện kết quả Bồ tát đã thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ (xác định rõ tánh chất vạn pháp duyên sanh như huyễn).
3. Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ bấy giờ hành giả chợt bừng tỉnh thấy rõ : “thân, tâm, căn, trần, thức, giới, đại đều một màu thanh tịnh”.
Rồi thấy rõ : ngu uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, nhị thập ngũ hữu thanh tịnh. Rồi thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cọng pháp, tam thập thất trợ đạo phẩm thanh tịnh cho đến tám muôn bốn ngàn pháp tồng trì môn đều thanh tịnh. Và lúc bấy giờ hành giả tỏ ngộ chân lý :
“TẤT CẢ LÀ THẬT TƯỚNG” .
4. Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, về đến nhà Viên Giác hành giả biết rõ vì sao căn, trần, thức, đại không hoại diệt nhau.
5. Thành tựu Tam Ma Đề cũng tức là về đến nhà VIÊN GIÁC, bấy giờ hành giả biết rõ vì sao Bố tát không nhàm chán sanh tử, không mong chứng Niết bàn… không kính người trì giới, không khinh người trái phạm…
6. Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, hành giả chợt thấy rằng mình chẳng có tu và cũng chẳng có thành tựu. Vì lẽ trong Viên Giác thanh tịnh không có tướng hai. Bấy giờ thấy rõ trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ, bất khả thuyết hằng hà sa thế giới chư Phật trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly… và chợt thấy rõ rằng :
“CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT”.
“SANH TỬ NIẾT BÀN NHƯ GIẤC MỘNG ĐÊM QUA”.
Bồ tát Phổ Nhãn và đại chúng tiếp thu trọn vẹn pháp môn TIỆM TU
ĐỐN NGỘ thậm thâm vi diệu ở chương này.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12