Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 4)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 4)

CHƯƠNG BỐN
CHƯA RA KHỎI LUÂN HỒI LUẬN BÀN VIÊN GIÁC TÁNH THÌ TÁNH VIÊN GIÁC TRỞ THÀNH ĐỒNG TÁNH LUÂN HỒI
1. Bấy giờ, Bồ tát Kim Cang Tạng đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Như Lai Thế Tôn vì Đại chúng tuyên dạy về NHƯ
LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM và PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA cùng phương tiện TIỆM TIẾN, khiến cho thính chúng trong pháp hội này bệnh mù lòa được sáng tỏ con mắt tuệ tăng trưởng hào quang.
Bạch Thế Tôn ! Nếu như chúng sanh xưa nay đã là Phật thì cớ gì lại có tất cả vô minh? Còn như chúng sanh xưa nay vốn có vô minh, vậy do nhơn duyên gì Như Lai lại nói chúng sanh xưa nay là Phật ? Nếu tất cả chúng sanh vốn đã thành Phật, sau đó lại sanh
khởi vô minh, vậy tất cả chư Phật chừng nào sanh khởi vô minh trở lại. Cúi mong Như Lai thương xót mở kho tàng bí mật, khiến cho Bồ tát và chúng sanh đời sau được nghe pháp môn liễu nghĩa Đại thừa kinh điển ngõ hầu trừ sạch các mối nghi.
Phật dạy: Kim Cang Tạng ! Ông hỏi Như Lai về những giáo nghĩa bí mật thậm thâm liễu nghĩa Đại thừa để cởi mở những gút nghi ngờ cho chúng sanh hậu thế.
Này, Kim Cang Tạng ! Trong thế giới tất cả những sự kiện: bắt đầu, kết cuộc, phía trước, mặt sau, sanh ra, chết mất, chỗ có vật, chỗ trống không, tụ hợp, tan rã, dấy động, ngưng bặc, niệm niệm tương tục, xoay vần, qua lại, khen chê, lấy, bỏ… đều là hiện tượng lưu chuyển luân hồi. Nếu CHƯA RA KHỎI LUÂN HỒI, LUẬN BÀN VIÊN GIÁC TÁNH THÌ TÁNH VIÊN GIÁC TRỞ THÀNH ĐỒNG TÁNH LUÂN HỒI. Ví như mắt giật thấy mặt nước đứng lặng rung rinh, mắt sững thấy đốm lửa quay thành cái vòng tròn liên tục, mây bay thấy trăng xê dịch, thuyền đi thấy bờ chạy. Vì vậy, muốn ra khỏi luân hồi là không thể có.
Kim Cang Tạng ! Mắt giật, mắt sửng, mây bay, thuyền đi chưa ổn định được, dù có muốn cho mặt nước đừng rung rinh, vòng tròn của đốm lửa hết trăng ngừng xê dịch, bờ không chạy ngược hãy còn không được, huống chi cái tâm luân hồi sanh tử cấu nhiễm
chưa từng thanh tịnh mà nhìn VIÊN GIÁC THANH TỊNH không trở thành lưu chuyển được sao? Vì thế, mà các ông nêu ba câu nạn vấn hoàn toàn phát xuất từ ý tưởng mê lầm !
2. Kim Cang Tạng ! Ví như mắt lòa vọng thấy hoa đốm. Lòa hết, không nên hỏi rằng lòa đã hết, chừng nào bóng lòa sanh trở lại. Vì sao ? Vì lòa và hoa đốm vốn không có, nó không phải là hai thứ có thực chất đối đãi nhau. Cũng như hoa đốm, diệt trong hư vô, không được hỏi rằng hư vô chừng nào sanh hoa đốm nữa. Vì sao? Vì hư vô vốn không có hoa. Cho nên không có vấn đề khởi sanh hay diệt mất. Sanh tử và niết bàn cũng không có khởi sanh hay khởi diệt. Viên giác Diệu Tâm màu nhiệm không như hoa đốm và bóng lòa.
Kim Cang Tạng ! Nên biết : hư vô không có lúc tạm có, cũng không có lúc tạm không, huống chi là NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM há lại theo sanh tử hay theo Niết bàn mà có sanh, có diệt! VIÊN GIÁC DIỆU TÂM bất động và bình đẳng, cũng như tánh hư vô vốn vĩnh cữu bất động và bình đẳng.
3. Nầy, Kim Cang Tạng ! Ví như nấu lọc quặng vàng. Vàng không phải do nấu có. Nhưng khi nấu lọc đã thành vàng, vàng không thành quặng trở lại, dù trải số kiếp bao lâu, tánh vàng cũng không hoại. NHƯ LAI VIÊN GIÁC cũng vậy, không nên nói: rằng xưa kia không sẵn có. Trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM không có cái tên Bồ đề, Niết bàn, cũng không có vấn đề thành Phật hay không thành Phật, không có luân hồi hay chẳng luân hồi. Chỉ
vì hàng Thanh Văn, không thể tiếp thu, không thân chứng được, họ chỉ ngăn giúp được phần vô minh thô trọng ở thanh tâm, ngôn ngữ mà hiện ra cảnh giới an tịnh gọi là Niết bàn. Nếu dùng tâm tư duy nhận xét suy lường cảnh giới VIÊN GIÁC NHƯ LAI, chẳng khác nào lấy lửa đom đóm mong đốt núi Tu Di sẽ chẳng có tác dụng gì! Đem cái tâm luân hồi, sử dụng cái thấy biết luân hồi mong vào
biển đại tịch diệt NHƯ LAI VIÊN GIÁC, hoàn toàn không có kết quả. Vì vậy, Như Lai dạy: tất cả Bồ tát và chúng sanh đời sau trước hết phải đoạn tận gốc rễ luân hồi vô thỉ.
4. Nầy, Kim Cang Tạng ! Có khởi niệm tư duy là có khởi tâm. Đó chỉ là bóng dáng của lục trần, không phải tâm thể chân thật. Nó huyễn giả giống như hoa đốm! Dùng tâm tư duy ấy luận bàn về cảnh giới VIÊN GIÁC PHẬT, chỉ là thứ vọng tưởng loanh quoanh, không sao thấu đáo được, chẳng khác gì hoa đốm trong hư vô, lại mong chờ kết trái, là chuyện ảo tưởng hoang đường ! Tâm hư vọng thô phù quá nhiều lệch lạc xa vời chân lý thì làm sao hiểu được cảnh giới VIÊN GIÁC đích thực rõ ràng. Cho nên những câu nạn vấn của các ông yêu cầu Như Lai giải đáp không phải là lời
nạn vấn có giá trị đứng đắn sâu xa.
Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Kim Cang Tạng nên biết. Tánh tịch diệt Như Lai. Chưa từng có thỉ chung. Nếu lấy tâm luân hồi.
Tư duy Viên Giác Phật. Chỉ quanh quẩn luân hồi. Không thể vào biển Giác. Ví như nấu quặng vàng. Vàng không do nấu có.
Dù xưa nay là vàng. Nhưng phải nhờ nấu lọc. Gạn hết quặng khoáng ra
Vàng không thành quặng nữa.
Sanh tử với Niết bàn. Phàm phu và chư Phật. Tướng hoa đốm hư vô. Tư duy đã là vọng.
Huống nạn hỏi loanh quoanh.
Quán triệt thâm lý này. Nhiên hậu cầu Viên Giác.
TRỰC CHỈ
1. Ba câu hỏi của Bồ Tát Kim Cang Tạng mới nghe qua tưởng chừng như khó mà trả lời cho rốt ráo. Dường như bao nhiêu chân lý đã gom vào đó cả rồi. Thực lý mà nói, đó vẫn là chân lý. Nhưng chân lý đó là thứ chân lý của người chỉ biết hiện tượng vạn pháp bên
mặt duyên sanh tương đối, chỉ biết nước qua sóng mòi lăng tăng ào ạt lô nhô mà chưa biết cái phẳng lặng như gương của nước, chỉ biết vàng qua bông tai, cà rá, kiền cổ, vòng tai mà chưa biết cái giá trị vĩnh cữu bất biến của vàng. Nói cách khác, sư hiểu biết như vậy là biết một mà chẳng biết hai. Vì vậy mà Như Lai quở: “ba câu nạn vấn của Bồ Tát Kim Cang Tạng phát xuất từ ý tưởng mê lầm”.
Phật dạy:”chưa ra khỏi luân hồi mà luận bàn Viên Giác Tánh thì
Tánh Viên Giác trở thành đồng tánh luân hồi”.
Lời dạy đó của đức Phật, thâm sâu và bao quát, nói lên nỗi lòng chua xót, khó khăn lo âu da diết trong sự nghiệp giáo hoá chuyển mê khai ngộ.
Nói cho người bệnh mắt giật hiểu rằng mặt nước vốn không có rung rinh. Giải thích cho người mù lòa biết cái quầng tròn năm
màu quanh ngọn đèn không thật có. Sự thật rõ ràng như thế, nhưng
đối với hạng người ấy khó mà nói cho họ nghe, khi bệnh căn của họ chưa hết.
Trước, sau, sanh, diệt, bắt đầu, chung cuộc, tụ họp, chia ly, có, không, yêu, ghét… đều là hiện tượng biểu hiện của sự luân hồi. Tất cả chúng sanh sống quay cuồng trong hiện tượng duyên sanh
huyễn hóa, chỉ cho chúng sanh nhận biết thế nào là huyễn hóa, thế
nào là duyên sanh là việc rất khó khăn.
2. Như Lai Viên Giác tự tánh là tánh thanh tịnh bản nhiên của sự vật vô tình. NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là tánh thanh tịnh bản nhiên của chúng sanh hữu tình. Tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Viên Giác không có lúc tạm có cũng không có lúc tạm không, cho nên Như Lai nói: CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT.
Vô minh không có tự tánh, ví như hoa đốm trong hư không. Hoa đốm chỉ có với người bị bệnh mắt lòa. Mắt hết bệnh lòa thì hoa đốm thì hoa đốm không có lý do để mà sanh khởi. “Thật tánh của vô minh là Phật tánh”. Vì vậy Như Lai vẫn có lý do để nói: CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT”
3. Cảnh chiêm bao không hiện trở lại khi người đã thức. Hoa đốm không sanh khởi trước người đôi mắt sáng suốt sạch trong. Vàng không thành quặng trở lại khi đã nấu lọc tinh thuần. Như Lai là Đại Giác, cho nên không bao giờ chư Phật sanh khởi vô minh trở lại.
Thành tựu : Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, tức là về đến Bồ đề tự tánh, Niết bàn diệu tâm đến nguyên quán của mình mà mình xa rời lưu lạc từ bấy lâu nay. Do vậy, Như Lai nói: Trong cảnh giới Như Lai Viên Giác Diệu Tâm không có thành Phật hay không thành
Phật. Không có luân hồi hay không luân hồi. Không có cái từ Bồ đề Niết bàn để khiến cho ai ham mộ…
4. Thể nhập cảnh giới Viên Giác không thể dùng tâm phân biệt tạp tưởng để suy lường. Vọng tâm, tạm tưởng suy lường cảnh giới
Viên Giác thanh tịnh cũng như lấy lửa đóm đóm đem đốt núi Tu di dù có nhọc công nhưng không đem lại kết quả gì.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 3)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 3)


CHƯƠNG BA
CHÁNH NIỆM TƯ DUY LÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP TIỆM TIẾN
Bấy giờ Bồ tát Phổ Nhãn đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn vì Bồ tát và chúng sanh đời sau dạy cho chúng con về cách tu hành tiệm tiến. Chúng con phải hành phương tiện chi, tư duy thế nào cho đúng để có thể ngộ nhập. Nếu vận dụng phương
tiện không đúng, tư duy sai lệch, sau khi nghe tam muội thậm thậm vi diệu như thế, e rằng không bỏ rối rắm mịt mờ, khó mà thể nhập VIÊN GIÁC TÂM thanh tịnh. Cúi mong Như Lai thương xót hàng Bồ tát và chúng
sanh đời sau vận dụng phương tiện, dạy cho chúng con cách thức tu hành tiệm tiến.
Phật dạy! Phổ Nhãn ! Thiện ý của ông rất tốt. Ông vì các Bồ tát và chúng sanh đời sau tha thiết hỏi Như Lai về cách tu hành tiệm tiến. Phổ Nhãn! Ông hãy lắng nghe Như Lai sẽ vì ông mà nói:
1. Phồ Nhãn ! Hàng tân học Bồ tát và chúng sanh đời sau muốn cầu được NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thì cần phải vĩnh ly các huyễn. Trước hết, thực hành pháp CHỈ, ở chỗ yên tĩnh và
nghiêm trì giới cấm. Tiếp đến tu QUÁN, vận dụng quán trí, tư duy quán chiếu về thân. Thân ta kết hợp bởi: tóc, lông, răng, móng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước dãi, mồ hôi cáu bợn, da sừng, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ, óc, hoành cách mạc, gan, mật, ruột già, ruột non, bao tử, bàng quang, đàm trắng, đảm đỏ… Truy nguyên, tất cả do đất, nước, gió, lửa… tứ đại nương gá mà thành. Một khi tứ đại tan rã thì còn gì để gọi là thân. Quán chiếu tư duy như vậy, bèn tỏ ngộ rằng thân này không có thực thể, chỉ là cái tướng hòa hợp tạm bợ mong manh, đồng như huyễn hóa. Lại tư duy rằng: Huyễn thân có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
) huyễn cảnh có sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) tứ đại trong và tứ đại ngoài hòa hợp mà vọng có nhận thức tư duy, bèn gọi cái tác dụng tư duy nhận thức là tâm. Tâm hư vọng đó, nếu không có sáu trần thì tâm đó không còn điều kiện hiện hữu. Sáu
trần thì thường ở trong trạng thái phân giải và tan rã liên tục, chẳng có gì đảm bảo sự tồn tại của trần. Tư duy quán chiếu thế rồi, chợt
tỏ ngộ rằng: thân tâm, căn trần đều chung quy một con đường hoại diệt, rốt ráo chẳng có gì.
Này, Phổ Nhãn ! Tu quán như thế rồi, nhận thức rằng: Huyễn thân diệt thì huyễn tâm cũng diệt. Huyễn tâm diệt thì huyễn trần cũng diệt, Huyễn trần diệt thì ý niệm diệt huyễn cũng diệt. Cái gì huyễn diệt hết, cái không phải huyễn thì không bị diệt. Ví như lau gương, bụi bậm hết, thể sáng hiện ra. Nên biết: thân tâm đều là huyễn cấu. Diệt hết huyễn cấu thì mười phương thuần một thể thanh tịnh. Ví như Ma ni bảo châu thanh tịnh ánh hiện năm màu, tùy góc đứng của họ mà kẻ ngu si cho rằng Ma ni bảo châu thật có năm màu.
2. Này, Phổ Nhãn ! Tánh thanh tịnh của Như Lai Viên Giác Diệu Tâm hiện ở thân tâm chúng sanh tùy chủng loại mà tương ứng. Những kẻ ngu si cho rằng: VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thật có cái tướng thân tâm, do vậy mà không thề viễn ly huyễn hóa.Thế cho nên Như Lai nói thân tâm là huyễn cấu. Người ly huyễn cấu Như Lai gọi là Bồ tát. Cấu diệt, ly vong, ý niệm cấu ly vắng lặng, lúc bấy giờ Bồ tát thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MUỘI
3. Này, Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh đời sau chứng nhập Như huyễn tam muội ấy rồi, vĩnh ly ảnh tượng, bấy giờ không gian vô tận thời gian vô cùng chỉ còn thuần một thề VIÊN GIÁC hằng hữu hiển hiện. VÌ VIÊN GIÁC tròn đầy sáng suốt cho nên tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh cho nên tánh thấy thanh tịnh, vì tánh thấy thanh tịnh cho nên nhãn căn thanh tịnh, vì nhãn căn thanh tịnh cho nên nhãn thức thanh tịnh, vì nhãn thức thanh tịnh cho nên tánh
nghe thanh tịnh, vì tánh nghe thanh tịnh cho nên nhĩ căn thanh tịnh, vì nhĩ căn thanh tịnh cho nên nhĩ thức thanh tịnh, vì nhĩ thức thanh tịnh cho nên tánh biết thanh tịnh… cho đến tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều thanh tịnh như vậy.
Phổ Nhãn nên biết: Vì sáu căn thanh tịnh cho nên sắc trần thanh tịnh, vì sắc trần thanh tịnh, nên thanh trần thanh tịnh, vì thanh trần thanh tịnh nên hương, vị, xúc trần cũng thanh tịnh như vậy. Và khi lục trần thanh tịnh rồi thì địa đại thanh tịnh, vì địa đại thanh tịnh cho nên thủy đại thanh tịnh, vì thủy đại thanh tịnh, hỏa đại, phong đại, không đại,kiến đại và thức đại cũng thanh tịnh. Và vì thất đại thanh tịnh cho nên mười hai xứ, mười tám giới, hai mươi lăm hữu thanh tịnh. Vì xứ, giới, hữu thanh tịnh cho nên thập lục, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cọng pháp, tam thập thất trợ đạo phẩm thanh tịnh… cho đến tám muôn bốn ngàn đà la ni môn tất cả thanh tịnh.
Này, Phổ Nhãn ! Tất cả là thật tướng. Vì tánh của tất cả vốn thanh tịnh cho nên một thân thanh tịnh, vì một thân thanh tịnh cho nên nhiều thân cũng thanh tịnh như vậy… cho đến mười phương chúng sanh đồng chung trong một thể VIÊN GIÁC thanh tịnh.
Này, Phổ Nhãn ! Một thế giới thanh tịnh cho nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh như vậy cho đến khắp mười phương, suốt ba đời tất cả bình đẳng thanh tịnh và bất động.
Này, Phổ Nhãn ! Vì hư không bình đẳng bất động mà biết giác
tánh bình đẳng bất động. Vì tứ đại bình đẳng bất động mà biết giác tánh bình đẳng bất động. Tám muôn bốn ngàn đà la ni môn bình đẳng bất động cho nên biết giác tánh bỉnh đẳng bất động. Vì giác tánh thanh tịnh bất động biến khắp pháp giới cho nên biết lục căn biến khắp pháp giới, vì lục căn biến khắp pháp giới nên lục trần biến khắp pháp gới, vì lục trần biến khắp pháp giới nên thất đại biến khắp pháp giới cho đến đà la ni môn cũng biến khắp pháp
giới.
4. Phổ Nhãn ! Do vì tánh VIÊN GIÁC nhiệm mầu kia biến khắp pháp giới cho nên tánh của căn của trần không hủy hoại nhau, không lộn lạo nhau. Vì tánh của căn của trần không hủy hoại, không lộn lạo cho nên đà la ni môn không hoại không tạp. Ví như thắp trăm ngàn ngọn đèn trong một ngôi nhà, ánh sáng của từng ngọn đèn viên mãn không hủy hoại nhau và không lộn lạo nhau.
5. Này, Phổ Nhãn ! Thành tựu VIÊN GIÁC rồi, Bồ tát không dính vướng với trói buộc, không mong cầu cởi mở, không nhàm chán sanh tử, không ham mộ Niết bàn, không kính người trì giới, không hủy mạ người phạm giới, không xem trọng người tu lâu, không khinh bạc người sơ cơ vào đạo. Vì sao ? Vì tất cả là một thể giác. Ví như ánh sáng của mắt nhìn xem tiền cảnh, ánh sáng tròn đầy khắp giáp mà không có ghét thương. Vì sao ? Vì thể sáng của mắt không hai.
6. Phổ Nhãn ! Bồ tát và chúng sanh ở đời sau tu tập VIÊN GIÁC DIỆU TÂM thành tựu, mà nên xem như không tu và không thành tựu. Vì sao ? Vì thế VIÊN GIÁC thường khắp chiếu mà thường tịch diệt, không có tướng hai. Ở trong đó trăm ngàn muôn ức a
tăng lỳ, bất khả thuyết hằng hà sa số thế giới của chư Phật như hoa đốm trong không, loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly, không buộc không mở. Lúc bấy giờ, chợt thấy rằng: “Chúng sanh xưa nay là Phật” . Sanh tử, Niết bàn như chuyện mộng đêm qua. Quả sở
chứng không được, không mất, không lấy, không bỏ. Người chứng đắc không TÁC, không CHỈ, không NHẬM, không DIỆT. Trong cái gọi là chứng , không năng không sở, hoàn toàn không có cái để chứng, cũng không có người được chứng. Vì sao ? Vì tánh của tất cả pháp bình đẳng thanh tịnh bản nhiên, không hủy hoại nhau.
Này, Phổ Nhãn ! Các hàng Bồ tát nên tu hành như vậy, tiệm tiến là như vậy, tư duy như vậy, trì trụ như vậy và phương tiện là như vậy. Như vậy mà khai ngộ, cầu học pháp như vậy thì sẽ không lầm lạc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :
Phổ Nhãn ông nên biết. Tất cả các chúng sanh. Thân tâm đều như huyễn. Thân thuộc về tứ đại.
Tâm là bóng lục trần. Tứ đại thể rời rạc.
Người ! Thật chất là ai ?
Tiệm tu, tu như vậy. Tất cả sẽ thanh tịnh. Khắp pháp giới bất động.
Không tác, chỉ, nhậm, diệt. Cũng không người năng chứng. Tất cả thế giới Phật.
Như hoa đốm trong không.
Ba đời đều bình đẳng. Rốt ráo chẳng đến đi. Sơ phát tâm Bồ tát.
Và hậu thế chúng sanh. Muốn tìm vào Phật đạo. Nên như thế tu hành.
TRỰC CHỈ
1. Ở chương một và chương hai, đức Phật dạy cho Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền phương pháp tu “Đốn”. Đốn là thẳng tắp đạt mục đích nhanh, không lệ thuộc thời gian. Chân lý là như thế, nhưng thực hiện nếp sống đúng, sống hợp chân lý để thành tựu và thọ dụng được cái kết quả đó thì hoàn toàn còn tùy thuộc ở con người quan trọng hơn nữa là căn tánh của con người. Bởi vì căn tánh con người có bậc thượng, bậc trung và bậc hạ.
Đốn là pháp môn tu chỉ có bậc tối thượng lợi căn mới thực hành nổi. Nói một cách có vẻ bi quan hơn thì đó chỉ là một chân lý. Chân lý để cho con người đặt thành mục tiêu làm chỗ dựa cho lý tưởng mà muốn đến đó chúng ta phải đi bằng phương tiện “TIỆM TIẾN “, đi một cách từ từ. Phải đi bằng CON ĐƯỜNG TU TẬP TIỆM TIẾN CHÁNH NIỆM TƯ DUY.
Trước hết thực hành Xa Ma Tha, tức là CHỈ để loại bỏ tạp tưởng lăng xăng loạn động. Công dụng của pháp tu CHỈ làm cho tâm yên ổn chặn đứng vọng niệm do tiếp xúc quá nhiều ngoại cảnh trong cuộc sống hàng ngày. Tạo được hoàn cảnh tốt, ở một nơi yên tĩnh vắng vẽ, giữ gìn cấm giới đã thọ trì, thúc liễm thân khẩu ý, thì
công dụng của CHỈ được phát huy hiệu quả cao.
Giai đoạn hai tu QUÁN. Quán là vận dụng quán trí để xem xét đánh giá một sự vật một đối tượng bằng cái thấy biết của trí soi rọi vào trong, không thấy biết bằng mắt quan sát bên ngoài, Nói cách khác, QUÁN là cái thấy bằng tư tưởng và biết cũng bằng tư tưởng, cho nên “Quán” thường đi đôi với “tưởng” . Quán tưởng khác hơn tưởng tượng tầm thường. Tưởng tượng tầm thường người ta có thể tưởng tượng những gì vô căn cứ, tưởng tượng viễn vông. Quán tưởng phải y cứ chánh pháp. Quán tưởng có mục tiêu và khi quán tưởng thành tựu là lúc phát hiện chân lý thực tiễn, sự thật cụ thể của hiện tượng vạn pháp trên cõi đời.
Trước hết “quán” về thân. Thân là một tổng thể kết hợp bởi các thứ nhơ nhớp: tóc, lông, răng, móng… truy nguyên đáo để do địa, thủy, hỏa, phong… duyên khởi mà hình thành. Nó rất tạm bợ mong manh, như huyễn, như hóa… Dù thân có sáu căn, có công năng xúc đối với sáu trần cảnh bên ngoài ở giữa sanh ra sáu thứ nhận thức bèn gọi cái công năng nhận thức đó là ” Tâm”. Tâm đó chỉ là bóng dáng của sáu trần lưu lại…
Tư duy quán chiếu như vậy để đi đến nhận thức kết luận rằng: Thân tâm, cảnh giới xét đến cùng tột chỉ là pháp huyễn hư chung quy hoại diệt thực chất chẳng có gì (thân vô ngã).
Thứ đến, quán chiếu và nhận thức rằng: Huyễn thân diệt thì huyễn tâm diệt, huyễn tâm diệt huyễn cảnh cũng diệt… cho đến ý niệm diệt huyễn cũng diệt.
Quán chiếu tư duy như vậy, hành giả tỏ ngộ rằng: Thân tâm cảnh giới tất cả là pháp như huyễn do các duyên nương gá mà tồn tại trong giấc mộng dài, thế sự…
2. Lại tư duy rằng: Như Lai Viên Giác Diệu Tâm hiện vào thân tâm chúng sanh tùy chủng loại mà tương ứng.
Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, không phải tâm Phật, không phải tâm Bồ tát, không phải tâm Duyên Giác, không phải tâm Thanh Văn… cho đến không phải tâm súc sanh, tâm ngạ quỷ, hay tâm địa ngục. Nhưng Như Lai Viên Giác Diệu Tâm cũng là tâm Phật,
cũng là tâm Bồ tát, cũng là tâm Duyên Giác, tâm Thanh Văn… cho đến cũng là tâm súc sanh, tâm ngạ quỹ và tâm địa ngục. Ví như tín hiệu phát sóng của đài Vô tuyến truyền hình, tuỳ tính chất tốt xấu của máy thu mà âm thanh màu sắc đen trắng… tốt xấu khác nhau. Người hiểu đúng, biết rõ tín hiệu của đài phát sóng không có nhiều dị dạng trong âm thanh màu sắc.
Qua tư duy đó, hành giả tỏ ngộ rằng thân tâm là huyễn cấu, người ly huyễn cấu Như Lai gọi đó là Bồ tát.
Tiến thêm một bước: cấu diệt ly vong, ý niệm CẤU, LY vắng lặng đó là lúc thể hiện kết quả Bồ tát đã thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ (xác định rõ tánh chất vạn pháp duyên sanh như huyễn).
3. Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ bấy giờ hành giả chợt bừng tỉnh thấy rõ : “thân, tâm, căn, trần, thức, giới, đại đều một màu thanh tịnh”.
Rồi thấy rõ : ngu uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, nhị thập ngũ hữu thanh tịnh. Rồi thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cọng pháp, tam thập thất trợ đạo phẩm thanh tịnh cho đến tám muôn bốn ngàn pháp tồng trì môn đều thanh tịnh. Và lúc bấy giờ hành giả tỏ ngộ chân lý :
“TẤT CẢ LÀ THẬT TƯỚNG” .
4. Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, về đến nhà Viên Giác hành giả biết rõ vì sao căn, trần, thức, đại không hoại diệt nhau.
5. Thành tựu Tam Ma Đề cũng tức là về đến nhà VIÊN GIÁC, bấy giờ hành giả biết rõ vì sao Bố tát không nhàm chán sanh tử, không mong chứng Niết bàn… không kính người trì giới, không khinh người trái phạm…
6. Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, hành giả chợt thấy rằng mình chẳng có tu và cũng chẳng có thành tựu. Vì lẽ trong Viên Giác thanh tịnh không có tướng hai. Bấy giờ thấy rõ trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ, bất khả thuyết hằng hà sa thế giới chư Phật trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn diệt, bất tức, bất ly… và chợt thấy rõ rằng :
“CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT”.
“SANH TỬ NIẾT BÀN NHƯ GIẤC MỘNG ĐÊM QUA”.
Bồ tát Phổ Nhãn và đại chúng tiếp thu trọn vẹn pháp môn TIỆM TU
ĐỐN NGỘ thậm thâm vi diệu ở chương này.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 2)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 2)

CHƯƠNG HAI
BIẾT HUYỄN LÀ ĐÃ LY HUYỄN LY HUYỄN LÀ PHẬT RỒI
Bấy giờ Bồ tát Phổ Hiền đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Bạch Thế Tôn ! Những người cầu học Đại thừa, sau khi nghe hiểu cảnh giới VIÊN GIÁC thanh tịnh rồi phải tu hành thế nào để được kết quả tốt? Bạch Thế Tôn ! Khi chúng sanh nhận biết tất cả là huyễn thì thân tâm họ cũng huyễn. Vậy thì lấy huyễn tu huyễn, có kết quả chăng? Và khi các huyễn diệt hết, thân tâm cũng không còn thì ai là người tu để gọi là tu hành như huyễn? Giả sử có hàng chúng sanh không biết tu hành, thường buông trôi sống trong sanh tử huyễn hóa với vọng tưởng loạn tâm, không hề biết cảnh giới như huyễn thì làm sao có được ngày giải thoát? Cúi mong Như Lai vì hàng Bồ tát và chúng sanh đời sau mở đường phương tiện dạy pháp tu hành tiệm tiến khiến cho xa lìa các huyễn !
1. Phật dạy ! Lời hỏi của ông rất có ý nghĩa, sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho các hàng Bồ tát và chúng sanh đời sau, những người chủng tánh Đại thừa cầu học NHƯ HUYỄN TAM MUỘI.
2. Nầy, Phổ Hiền ! Tất cả chúng sanh và các thứ huyễn hóa đều sanh trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM, ví như hoa đốm sanh khởi trong hư không. Dù hoa đốm có sanh, có diệt, hư không vẫn y nhiên. Các huyễn tùy sanh, tùy diệt mà NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM bất động.
Đối với huyễn pháp mà đề cập giác tâm, nhưng nếu chấp có giác tâm thì vẫn chưa ly huyễn. Bồ tát và chúng sanh đời sau phải viễn ly tất cả cảnh giới huyễn hóa, tiếp đến viễn ly khái niệm viễn ly. Viễn ly cả ý niệm ly và không ly, bấy giờ mới thật viễn ly các huyễn. Ví như người cần lửa, lấy hai thanh gỗ cọ vào nhau, lửa phát, gỗ cháy, tro bay, khói diệt. Lấy huyễn
tu huyễn phương cách ví cũng như vậy. Các huyễn dù diệt hết mà thiền giả
không rơi vào đoạn diệt.
Nầy, Phổ Hiền ! Biết huyễn tức là ly huyễn rồi, đòi hỏi phương tiện mà chi
! Ly huyễn là Phật rồi tìm hiểu tiệm tiến làm gì ! Bồ tát và chúng sanh đời sau học tu như thế sẽ được viễn ly các huyễn.
Bấy giờ đức Như Lai tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Phổ Hiền ông nên biết. Tất cả các chúng sanh. Vô thỉ huyễn vô minh.
Như hoa đốm trong không. Từ hư không huyễn có. Hoa đốm dù diệt hết.
Hư không vẫn y nhiên. Huyễn từ Giác tâm sanh. Huyễn diệt Giác bất động. Hàng Đại thừa Bồ tát.
Các chúng sanh đời sau. Hằng nên viễn ly huyễn Các huyễn hãy vĩnh ly. Như cọ gỗ lấy lửa.
Lửa cháy gỗ tiêu tan. Tro tàn, khói bốc hết. Giác, không cần tiệm tiến.
Phương tiện cũng chẳng dùng.
TRỰC CHỈ
Phát tâm tu học Đại thừa phải tư duy tìm hiểu về VIÊN GIÁC TÁNH của vạn pháp và VIÊN GIÁC TÂM của chính mình, vì đó là mục tiêu chính của hành giả cần đạt đến.
1. Huyễn cảnh, huyễn thân, huyễn tâm sanh trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM, ví như hoa đốm sanh khởi trong hư không.
Dù hoa đốm có sanh, có diệt, hư không vẫn y nhiên. Cũng vậy, các huyễn tùy sanh tuỳ diệt mà Như Lai Viên Giác Diệu Tâm bất động.
Đối với thân tâm cảnh giới huyễn mộng mà đề cập “giác tâm”. Dùng giác tâm, tỉnh thức để nhận biết thân tâm cảnh giới huyễn mộng. Biết huyễn mộng tức là đã ly huyễn mộng. Ly huyễn mộng là đã tỉnh thức rồi. Phật là một con người, là con người tỉnh thức viễn ly tất cả thân tâm cảnh giới huyễn hóa kia. Nên biết, thành Phật phải là người ở tại thế gian. Rởi bỏ thế gian để hy vọng thành Phật trong cảnh giới xa xăm hư vô huyền bí thì đó
là ý tưởng của người mong tìm sừng thỏ lông rùa !
Ơ chương một, Phật dạy Bồ tát Văn thù hãy quan tâm đặc biệt ở chữ TRI, nghĩa là phải BIẾT vô minh không thực thể, nó như hoa đốm trong không để không chiều theo nó mà phải nhận lấy sự sanh tử luân hồi, dù sự luân hổi như huyễn.
Ơ chương nầy, Như Lai vẫn chưa khai thị pháp “tiệm tu”. Nhằm mục đích động viên khuyến khích cho Bồ tát và chúng sanh hậu thế, nỗ lục trên con đường “đốn tu, đốn ngộ, đốn chứng”.
Như Lai dạy:
“Tri huyễn tức ly bất tác phương tiện. Ly huyễn tức giác diệt vô tiệm thứ “.
Nghĩa là người “biết huyễn là đã ly huyễn. Người ly huyễn là người thành
Phật rồi “, còn hỏi thêm chi những pháp tu hành “tiệm giáo” nữa !
Giáo lý “đốn tu, đốn ngộ, đốn chứng” đức Phật dạy bao quát và đầy đủ ở
hai chương đầu của bộ kinh Như Lai Viên Giác.
Ơ chương một quan trọng ở chữ TRI. Chương hai nầy, then chốt ở chữ LY.
TRI và LY là phương pháp tu hành thẳng tắp của những bậc lợi căn tối thượng.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 1)

NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH – Trọn bộ (Chương 1)

Kinh Như Lai Viên Giác Trực Chỉ Ðề Cương
Pháp Sư Từ Thông
TỰA
Bộ kinh nầy tiền bối cổ kim từ các thời đại Tống, Minh xa xưa ở Trung Quốc và qua bao thế hệ lịch sử ở Việt nam ta đều tiếp nhận danh xưng của bộ kinh nầy qua nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LIỄU NGHĨA KINH. Với nhan đề đó, nói lên tánh chất trọng đại trong trọng đại ở nội dung và giáo nghĩa thậm thâm vi diệu của kinh. Thực lý
mà nói, văn tự có tuyệt xảo thế nào cũng không chở hết được ý. Người xưa nói: Ý tại ngôn ngoại. Phật thì nói: “Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Văn tự, giáo lý của tất cả kinh tạng ví như ngón tay chỉ trăng. Và lại theo lời Phật dạy cho Bồ tát Hiền Thiện Thủ thì kinh nầy có thể gọi bằng những năm danh tự khác nhau. Mà danh tự nào, ý nghĩa cũng hun
hút chiều sâu như vực thẳm.
Khi dịch và viết phần Trực chỉ bộ kinh nầy, tôi suy nghĩ rất nhiều về cái đề kinh. Theo cổ nhơn gọi tắt với cái tên: VIÊN GIÁC KINH, tôi thấy không vừa lòng. Dùng nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA KINH tôi cho là quá dài mà cũng không hẳn đủ đảm bảo nội dung của kinh trong đó. Qua quá trình tư duy dai dẳn tôi vụt nhớ hai câu thơ của một thiền sư Việt nam:
“Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”.
Lời cổ vũ sấm rang đó, tôi khởi ý quyết định “chiết trung” hai nhan đề một dài và một ngắn ấy, thành: NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH. Đó làcái nhan đề mà tôi dâng trọn tâm hồn lên đức Phật để xin được đặt ra.
NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH là một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Liễu nghĩa Đại thừa. Ơ kinh nầy, đức Phật khai thị về tự tánh VIÊN GIÁC của mọi người. Rằng con người ai cũng sẵn có cái tánh giác ngộ viên mãn thanh tịnh không có tội lỗi nhiễm ô. Dù ở Thánh tánh đó không thêm, ở phàm cũng không bị hao bớt. Chúng sanh hiện hữu trên cõi đời nầy chỉ là diệu dụng tùy duyên vốn sanh khởi từ bản thể tự tánh VIÊN GIÁC bất biến ấy. Vì vậy, cho nên gọi là NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
Tu học theo kinh Như Lai Viên Giác hành giả sẽ hiểu rõ về giáo lý:
Đốn tu đốn ngộ Tiệm tu tiệm ngộ Đốn ngộ tiệm tu Đốn tu tiệm ngộ
“Đốn” “Tiệm” là phạm trù đối đãi về mặt thời gian. “Tu” “Ngộ” là phạm
trù đối đãi về mặt nhân quả. Có tu thì có ngộ. Có ngộ thì có chứng đắc quả vị. Đó là chân lý về nhân quả. Chân lý nhân quả không riêng gì phương tiện tu chứng mà nó bao quát hết thảy sự vật hiện tượng thế gian và pháp xuất thế gian, ngoại trừ thân chứng cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC.
Đáp câu hỏi của Bồ tát Văn Thù về pháp hành của Như Lai khi tu nhơn địa. Phật dạy: PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA LÀ SỬ DỤNG TRÍ VIÊN GIÁC QUÁN CHIẾU LÝ VIÊN GIÁC. VÌ VẬY KHÔNG SANH KHỞI VÔ MINH GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO. Qua lời dạy đó, người đệ tử Phật thấy rằng: Khi tu nhơn, đức Phật chỉ sử dụng chân trí soi rọi chân lý. Đức Phật không có làm gì cực nhọc khó khăn. Lấy chân trí trong sáng tỉnh thức quán chiếu chân lý vốn thanh tịnh bản nhiên, do vậy, vô minh không có điều kiện sanh khởi. Mà không có vô minh thì không phải chúng sanh. Không phải chúng sanh thì gọi là Phật, là thành Phật đạo !
Giáo lý đốn tu, đốn ngộ, đốn chứng được Thế Tôn khai thị cho Bồ tát Đại
Trí Văn Thù ở chương một của bộ kinh nầy.
TRI HUYỄN TỨC LY, LY HUYỄN TỨC GIÁC đức Phật dạy cho Bồ tát Phổ Hiền ở chương hai Như Lai vẫn chưa mở bày phương tiện, vì ý Phật muốn cho những người có chủng tánh Đại thừa cần phải hứng khởi ý chí quyết liệt, như người bừng tỉnh một cơn ác mộng. Người biết mộng là người đã tỉnh thức rồi.
Dạy về pháp ĐỐN NGỘ ĐỐN TU ở chương một, đức Phật khai thị cho Bồ tát Đại Trí Văn Thù về công năng tu tập qua một chữ TRI. Ơ chương hai Phật khai thị về công dụng của chữ LY do Bồ tát Phổ Hiền nêu ra cũng nhằm để hướng dẫn pháp hành ĐỐN TU ĐỐN NGỘ và ĐỐN CHỨNG.
Nếu chưa phải là bậc lợi căn đại trí thì cầu học những phương tiện “Tiệm tu”. với pháp tiệm tu, hành giả có thể thực hành tu tập những pháp môn ngang với nghị lực và nhận thức của mình. “Tiệm” có nghĩa là dần dần, từ thấp tới cao, từ chậm đến mau trên đường tu, ngộ. Tuy nhiên, hành giả không để lệch mục tiêu là VIÊN GIÁC TỰ TÁNH vốn có của mình. Rời mục tiêu ấy mà cầu mong chứng ngộ Bồ đề Niết bàn… chẳng khác nào mò trăng đáy nước, nấu cát hy vọng thành cơm, chờ hoa đốm trong hư vô sanh ra quả ngọt…
CHỈ, QUÁN và THIỀN là ba pháp hành căn bản trong nền giáo lý Phật. Nó được ứng dụng xuyên suốt không gian và thời gian đối với người đệ tử Phật phát chí tu hành, và cũng từ căn bản đó vận dụng triển khai thành “vô lượng pháp môn tu” ! Ví như xi măng, cát, đá, sắt và nước là chất liệu cơ bản của ngành kiến trúc vậy.
Sự chấp mắc sai lầm chân lý đối với đường tu, nó trở thành vật cản, chặn đứng sự tiến lên đỉnh cao Bồ đề Niết bàn Phật. CHỨNG, NGỘ, LIỄU, GIÁC là sự chấp mắc sai lầm về “bản ngã”. Không tỏ ngộ chân lý “ngã không”, con người rất khó dứt ý tưởng “ngã chấp câu sanh”. Dứt câu sanh ngã chấp khó, ví như người tự cắt đầu mình !
TÁC, NHẬM, CHỈ, DIỆT cũng là thứ bệnh chấp sai lầm từ nhận thức, dẫn đến chủ trương lệch lạc chánh nhân. Nhân đã lầm thì quả sẽ lạc, khiến cho VIÊN GIÁC DIỆU TÁNH không còn là mục tiêu hướng thiện hâm hở của lúc khởi hành ! Hãy thận trọng lưu tâm !
“Đại hải bất nhượng tiểu lưu”. Là biển cả thì không ngại dung chứa nước sông ngòi khe lạch. NHƯ LAI VIÊN GIÁC kinh là tư tưởng Liễu nghĩa Thượng thừa, mà bậc đại căn cơ hay trung lưu tiểu trí, học tu đều đem lại lợi ích thích ứng với CHÍ, NGUYỆN, HÀNH của mỗi người.
Vì nội dung tư tưởng thậm thâm vô thượng, vì tánh chất Đại Phương
Quảng Liễu Nghĩa của kinh mà tiền bối hậu triết dị khẩu đồng tâm mỗi
mỗi triển khai và ghi lại những điều tâm đắc của mình. Suốt quá trình Phật sử ở Trung Quốc, kinh Viên Giác được những nhà Phật học sớ giải, chú thích, trước thuật, biên soạn gồm có những tên gọi:
• Viên Giác Kinh Lược Sớ. Đời Đường, ngài Tông Mật sớ, phân thành 4 quyển.
• Viên Giác Kinh Đại Sớ, Sớ Sao cũng do ngài Tông Mật sớ sao phân thành 3 quyển
• Viên Giác Kinh Sao Biện Nghi Ngộ. Đời Tống, ngài Quang
Phục biên soạn phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Sớ Sao Tùy Văn Yếu Giải. Đời Tống, ngài
Thanh Viên soạn thuật phân thành 12 quyển
• Viên Giác Kinh Ngự Chú. Đời Tống, Hiếu Tông Hoàng Đế chú giải phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Loại Giải. Đời Tống, ngài Hạnh Đình giải phân thành 8 quyển.
• Viên Giác Kinh Lược Sớ Tự Chú. Đời Tống, ngài Như Sơn chú 1 quyển
• Viên Giác Kinh Tâm cảnh. Đời Tống, ngài Trí Thông thuật phân thành 6 quyển.
• Viên Giác Kinh Tập Chú. Đời Tống, ngài Nguyên Túy thuật phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Hiệp Tụng Tập Giải Giảng Nghĩa. Đời Tống, ngài Chu Kỳ soạn thuật phân thành 12 quyển
• Viên Giác Kinh Trực Giải. Đời Minh, ngài Đức Thanh soạn thuật phân thành 6 quyển
• Viên Giác Kinh Yếu Giải. Đời Minh, ngài Tịnh Chánh giải phân thành 2 quyển.
• Viên Giác Kinh Cú Thích Chánh Bạch. Ngài Hoằng Lệ trước thuật phân thành 6 quyển.
• Viên Giác Kinh Liên Châu. Ngài Tịnh Định trước thuật 1
quyển.
• Viên Giác Kinh Tịnh Nghĩa Sớ. Ngài Thông Lý trước thuật phân thành 4 quyển
• Viên Giác Kinh Giải Nghĩa. Ngài Đế Nhàn diễn giải phân thành 2 quyển
Đó là những vị tiền bối có quyết tâm đầu tư trí tuệ khai thác nguồn tài nguyên tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa ở kinh Viên Giác
Ơ Việt nam ta, cũng đã có một vài bản dịch từ Hán văn ra Việt văn, nhưng vì thiếu vốn đầu tư, và không vận dụng khả năng sáng tạo. Vì vậy công dụng của kinh Viên Giác vẫn còn mai một chưa có cơ hội phát huy, bởi phẩm chất chưa đáp ứng thị trường đối với người muốn tìm học Phật pháp.
Nay với nhan đề NHƯ LAI VIÊN GIÁC KINH TRỰC CHỈ ĐỀ
CƯƠNG, với khả năng của mình, tôi viết ra phần TRỰC CHỈ để chỉ
thẳng trọng tâm, hướng dẫn người đọc nắm được ý chính, nhận thức nghĩa lý tiềm ẩn ở văn kinh ý Phật. Đó là lý tưởng của bỉ nhân tôi đối với công trình biên soạn dịch thuật bộ kinh nầy. Tuy nhiên, sức đầu tư rất hữu hạn mà tài nguyên liễu nghĩa thượng thừa thì vô tận bao la, cho nên hy vọng có được chút lợi ích nào cho người đọc cũng đáng mừng rồi.
Cổ nhân nói: “Chí lạc mạc như đọc thơ, chí yếu mạc như giáo tử”. Không có thú vui nào bằng thú vui đọc sách. Không có sự bí yếu nào bằng cái bí yếu đem dạy cho con.
Đọc sách đã là vui, đọc kinh Phật đối với người Phật tử có lẽ không đến nỗi buồn ! Mong thay !
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT Sài gòn, ngày 20 – 11 – 1992
Pháp sư : THÍCH TỪ THÔNG
Kính đề.
LỜI CÁO BẠCH (trang 13)
Bộ kinh NHƯ LAI VIÊN GIÁC các tiền bối cổ kim có lẽ vì y theo khuôn sáo trước mà các Ngài thường phân chia thành nhiều quyển từ 2, 3,
4, 5 hay nhiều hơn thế nữa. Riêng tôi, tôi nhận thấy sự phân chia ấy không đem lại hiệu quả gì, mà chỉ thêm phần hình thức rườm rà vô bổ. Sự kiện then chốt của toàn kinh là mười hai vị Bồ tát thay mặt Viên Giác Hải Hội nêu lên những câu hỏi để cầu Phật chỉ dạy. Y nghĩa nội dung những câu hỏi có thể thu nhiếp trong hai mục đích yêu cầu:
1. Học phương pháp tu mà đức Phật và thập phương chư Phật đã tu và được thành Phật.
2. Cầu Phật giải phẫu chứng bệnh “chấp” và bệnh “nghi” và cầu Phật chỉ dạy phương pháp ngăn ngừa các chứng bệnh đó cho Bồ tát và chúng sanh tu hành hậu thế.
Hai mục đích yêu cầu xuyên qua mười hai đề tài nghi vấn của mười hai vị đại Bồ tát, được Phật khai thị cặn kẽ rõ ràng, khiến cho trình độ tiếp thu chánh pháp của thính chúng được nâng cao liên tục. Với nhận xét đó, tôi thấy sự phân chia ra nhiều quyển, không cần, cho nên tôi chỉ rút một câu hoặc những từ có ý nghĩa then chốt, trọng tâm của đề tài được Phật khai thị, tôi đặt thành “Tiểu đề” của đề tài đó. Và mỗi đề tài nghi vấn của một Bồ tát, tôi kể đó là một chương. Ví dụ:
Chương Một
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA.
Chương Hai
LY HUYỄN TỨC GIÁC GIÁC TỨC THÀNH PHẬT…
Như vậy trọn bộ kinh nầy có tất cả 12 chương, mà không phân chia số quyển. Mong sao người đọc nhận ý quên lời để giảm nhẹ bệnh hình thức, câu nệ khuôn sáo biến kế danh ngôn.
“Nhất thiết tu đa la giáo
Như tiêu nguyệt chỉ”.
Lại có thơ rằng:
“Không môn bất khẳng xuất
Đầu song giả tự si Bách niên toàn cố chỉ Hà nhật xuất đầu thì”.
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG Kính cáo.
PHÀM LỆ
Bộ kinh NHƯ LAI VIÊN GIÁC gồm cả thảy 12 chương, khi nghiên cứu kinh nầy kính mong độc giả lưu ý:
1. Phần nguyên văn kinh được in chữ đứng, đó là phần dịch từ kinh
Hán tự ra Việt văn.
2. Phần trực chỉ in chữ nghiêng để cho dễ phân biệt. Phần nầy do bỉ nhân tôi đóng góp viết ra những điều tâm đắc bằng kiến giải của riêng mình. Hy vọng phần trực chỉ sẽ giúp cho độc giả manh mối để tư duy, gợi trí nhận xét trong tiến trình tìm hiểu học tu theo con đường Phật.
3. Đoạn kinh có nhiều ý, tôi đánh số 1, 2, 3, v.v… Đoạn có đánh số là có tiềm ẩn ý nghĩa sâu xa. Tôi phân tích và triển khai phần tiềm ẩn đó trong phần TRỰC CHỈ sau chương đó.
4. Ở phần TRỰC CHỈ cũng được đánh số 1, 2, 3, v.v… Số ở phần nầy ứng hợp với số ở phần kinh văn trên. Ví dụ: số 2 ở phần TRỰC CHỈ diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn số 2 ở phần kinh
văn. Ngược lại, ở phần kinh văn thấy có đánh số 2 tức là đã có diễn đạt ý nghĩa tiềm ẩn của đoạn kinh đó ở sau chương trong phần TRỰC CHỈ.
Mấy lời kính cáo, mong độc giả lưu tâm. Ngày nào chúng ta còn sống là còn phải học
“HỌC, HỌC NỮA VÀ HỌC MÃI”.
Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG Cẩn bạch.
CHƯƠNG MỘT
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA
1. Kinh này tôi nghe một thuở nọ đức Phật trụ trong chánh định Đại Quang Minh Tàng. Bấy giờ, thân tâm Như Lai vắng lặng, bình đẳng như hư vô, tùy thuận cảnh giới bất nhị. Các cõi nước thanh tịnh đồng thời hiển hiện trong bối cảnh trang nghiêm ấy và có cả mười van đại Bồ tát vân tập thành một hải hội đông vầy. Những bậc thượng thủ trong hàng Bồ tát gồm có:
Bồ tát Đại Trí Văn Thù. Bồ tát Phổ Hiền. Bồ Tát Phổ Nhãn. Bồ tát Kim Cang Tạng. Bồ tát Di Lặc. Bồ tát Thanh Tịnh Tuệ. Bồ tát Uy Đức Tự Tại. Bồ tát Biện Am. Bồ tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng. Bồ tát Phổ Giác. Bồ tát Viên Giác. Bồ tát Hiền Thiện Thủ cùng các quyến thuộc đồng nhập chánh định BẤT NHỊ.
Bấy giờ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đảnh lễ dưới chân Phật rồi đi quanh ba vòng, quỳ gối chấp tay thưa:
2. Bạch Thế Tôn ! Các hàng Bồ tát phát tâm thanh tịnh cầu học Đại thừa phải tu tập thế nào để tránh được các bệnh chấp và những chúng sanh hậu thế phải làm sao để khỏi rơi vào tà kiến ! Cúi mong Như Lai thương xót đại chúng trong hội nầy mà dạy cho chúng con về PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA từ lúc khởi đầu !
Đức Phật bảo: Văn Thù Sư Lợi ! Lời hỏi của ông rất có ý nghĩa. Ong vì các Bồ tát và chúng sanh đời sau mà hỏi về PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA. Đó là một vấn đề rất hệ trọng Như Lai sẽ vì các ông mà nói:
3. Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Đấng Vô Thượng Pháp Vương có pháp môn
Đại Tổng Trì tên VIÊN GIÁC. Từ VIÊN GIÁC lưu xuất chân như thanh tịnh, Bồ đề, Niết bàn. Các Ba La Mật môn để dạy cho Bồ tát đều lưu xuất từ VIÊN GIÁC ấy.
Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA LÀ SỬ DỤNG QUÁN TRÍ VIÊN GIÁC SOI RỌI CHÂN LÝ VIÊN GIÁC, DO VẬY MÀ KHÔNG SANH KHỞI VÔ MINH GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO.
Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Các ông nên biết ! Vô minh vốn không là gì cả. Chỉ vì tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ quá nhiều điên đảo, ví như người mất trí nhận sai phương hướng, đông tây trái chỗ, nam bắc lộn tên; vọng nhận tứ đại cho là cái tướng tự thân, bóng dáng lục trần cho là cái tướng tự tâm. Thực chất họ như người bị bệnh mắt. Vì bệnh mắt mà thấy có vành trăng thứ hai bên mặt trăng duy nhất.
Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Hư không vốn không có hoa đốm, người bệnh mắt vọng nhận là có. Do vọng nhận cho nên không những hiểu sai về tự tánh của hư không mà còn lầm cho rằng hư không là chỗ sanh ra hoa đốm. Cũng như vậy, luân chuyển sanh tử chỉ là sự vọng nhận và vọng thấy
trong VIÊN GIÁC TÁNH thanh tịnh. Vì vậy, cho nên gọi đó là VÔ MINH.
4. Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Vô minh không có thực thể. Chúng ví như sự việc trong mộng, khi mộng thì không phải không, lúc tỉnh thì chẳng có gì. Hoa đốm khi diệt mất trong hư không nhưng không thể nói có diệt, vì nó không có thật sanh. Cũng vậy, tất cả chúng sanh ở trong chỗ không sanh, vọng thấy có sanh, ở trong chỗ không diệt vọng thấy có diệt, thế cho nên gọi là luân chuyển sanh tử.
5. Nầy, Văn Thù Sư Lợi ! Nhơn Địa của Như Lai trong khi tu VIÊN GIÁC đại định thường vận dụng trí tuệ để BIẾT và BIẾT vô minh vốn không, không có thật tánh, chúng như hoa đốm có trong hư không. Do vậy, không còn lầm nhận về tướng thân tâm cho nên không thấy có tướng thân tâm thọ nhận sự luân chuyển sanh tử. Cái không ấy, không phải do gắng sức cố làm nó mới không mà tánh bản nhiên của nó tự không.
Tánh biết và tánh hư không, cũng như vậy. Biết mà giống như không biết, không lưu giữ về ý niệm biết chủ quan. Tánh hư không cũng không trụ chấp. Tánh biết và tánh không của hư không cả hai đều vắng lặng, bấy giờ gọi là người TÙY THUẬN GIÁC TÁNH THANH TỊNH.
Vì sao nói như thế ! Vì thực tánh của vạn pháp là không. Vì tánh của vạn pháp bất động, vì trong Như Lai tàng không có tướng đầu mối của sự sanh khởi và tướng chấm dứt của sự tận cùng. Vì không có cái tri kiến phân biệt xen vào. Vì tánh của pháp giới là chân như tròn đầy toàn diện, phổ biến mười phương.
PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI TRONG KHI TU NHƠN ĐỊA là như
thế.
Bồ tát tu học Đại thừa nên phát tâm thanh tịnh như vậy. Chúng sanh đời sau theo đó mà tu sẽ không bị rởi vào tà kiến.
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :
Văn Thù ông nên biết. Tất cả chư Như Lai Nhơn địa thuở ban đầu Đều dùng trí tuệ giác Nhận rõ các vô minh
Biết chúng như không hoa Mà được khỏi lưu chuyển Người mộng thấy việc mộng Khi tỉnh chẳng có gì
Thể Giác như hư không Bình đẳng không động chuyển Giác khắp mười phương cõi Gọi là thành Phật đạo
Các huyễn diệt không chỗ Thành Phật cũng không thành Vì tánh Giác viên mãn
Bồ tát nương nơi đây
Mà phát Bồ đề tâm Chúng sanh trong hậu thế Nương đây khỏi tà kiến.
TRỰC CHỈ
1. Qua nhận thức của Đại thừa thì Phật lúc nào cũng trụ trong thiền định chứ không phải lúc sắp nói kinh đức Phật mới trụ trong thiền định. Với mười tám pháp bất cọng của Phật chứng minh cho điều đó :
1. Thân không lỗi.
2. Khẩu không lỗi.
3. Ý không lỗi.
4. Không có tư tưởng kỳ thị.
5. Không có loạn tâm.
6. Không lưu giữ tri kiến.
7. Ý muốn độ sanh không giảm.
8. Chánh niêm không giảm.
9. Tuệ tâm không giảm.
10. Tinh tấn không giảm.
11. Xả ngã không giảm.
12. Xả pháp không giảm.
13. Thân hành động có trí tuệ.
14. Khẩu nói ra có trí tuệ.
15. Ý tư duy có trí tuệ.
16. Trí tuệ biết đúng về quá khứ.
17. Trí tuệ biết đúng ở hiện tại.
18. Trí tuệ biết đúng ở tương lai.
Đại Quang Minh Tàng là tên của một thiền định. Trụ ở thiền định Đại Quang Minh thì không có vô minh mê ám. Do vậy mà thân tâm Như Lại tịch tĩnh và bình đẳng như hư vô. Bấy giờ tự khắc các cõi Tịnh độ hiện ra.
“Có tâm tịnh thì có cõi Phật tịnh”.
Muốn tu học Đại thừa cần phải phát chí Đại thừa. Trí phải học theo Đại
Trí Văn Thù. Hạnh phải học với Đại Hạnh Phổ Hiền…
2. Bồ tát Đại Trí Văn Thù cầu Phật chỉ dạy ba điều:
1/ Cần có kiến giải thế nào để khi tu hành khỏi vướng mắc vào “bệnh chấp”.
2/ Phải học chánh pháp với ai để có thể
tránh được con đường tà kiến”.
3/ Xin Phật dạy lại pháp hành của Phật trong lúc tu nhơn.
3. Rằng PHÁP HÀNH CỦA NHƯ LAI KHI TU NHƠN ĐỊA, SỬ DỤNG QUÁN TRÍ VIÊN GIÁC SOI RỌI CHÂN LÝ VIÊN GIÁC, DO VẬY VÔ MINH KHÔNG SANH KHỞI, GỌI LÀ THÀNH PHẬT ĐẠO.
Giáo lý “đốn ngộ” “đốn tu” “đốn chứng” là vậy đó. Ý Phật dạy rằng con người vốn có cái chân trí trong sáng, thanh tịnh, không có tội lỗi, đó là cái tánh giác ngộ viên mãn vốn có của con người. Hiên tượng vạn hữu cũng vậy, tánh của nó vốn thanh tịnh viên mãn không có nhiễm ô, không có xấu xa. Đó là chân lý tự nhiên của hiện tượng vạn pháp.
Dùng chân trí thanh tịnh soi rọi chân lý thanh tịnh, tâm và cảnh đều thanh tịnh. Pháp hành của Như Lai khi tu nhơn chỉ có vậy. Và do vậy vô minh không sanh khởi mà gọi là thành Phật đạo.
Nền giáo lý “đốn ngộ đốn tu” chỉ rõ nhân vị của con người do con người quyết định vi con người tối linh ư vạn vật.
Ngài Quy Sơn nói:
“Kim sanh tiện tu quyếtđoán. Tưởng liệu bất do biệt nhơn.
Tức ý vong duyên bất dữ chư trần tác đối. Tâm không, cảnh tịch chỉ vị cửu trệ bất thông”.
(Tự mình định đoạt cuộc đời mình, dứt khoát không do ai khác. Làm chủ tâm cảnh, cắt đứt căn trần, tự khắc thân tâm cảnh giới thanh tịnh và tịch tĩnh bình đẳng như hư vô… Chân lý là như thế, xưa nay không biết là lỗi ở nơi người.)
4. Vô minh, nó không là gì cả. Nó là thứ huyễn vọng không có thực thể. Mê thì vô minh tác động hoành hành. Giác thì vô minh không có. Ví như hoa đốm trong hư không. Hoa đốm chỉ có đối với người bị bệnh nhặm mắt. Người không bệnh nhặm mắt không sao tìm thấy hoa đốm.
5. Phận sự của người tu hành giống như trách nhiệm của người gác cửa. Thành công hay thất bại tùy thuộc ở một chữ BIẾT.
Ơ chương nầy, Phật dạy Bồ tát Văn Thù hãy quan tâm về chữ BIẾT. BIẾT để mà nhận biết vô minh, nhưng khi biết được vô minh, hóa giải hết vô minh thì tánh biết và vô minh bị biết đều buông bỏ hết, chỉ còn một thể giác thanh tịnh viên mãn. Bấy giờ được gọi là người TÙY THUẬN VIÊN GIÁC TÁNH.
Sanh tử là diệu dụng tùy duyên của bản thể chân như bất biến. Sanh tử
không phải là việc đáng sợ. Thập phương Bồ tát cho đến chư Phật Như
Lai vẫn tùy nguyện vào ra sanh tử để vun quén mãi cái nhân thành Phật cho mình.
Sanh tử do “vọng nhận” mới là thứ sanh tử đáng sợ. Đây là thứ sanh tử khổ đau vì vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, vọng nhận bóng dáng lục trần làm tướng tự tâm của mình. Sanh tử nầy là con đẻ của vô minh, khổ não ưu bi phát xuất từ “vọng nhận” thật sanh và thật tử…
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH – Trọn bộ

BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH – Trọn bộ

LỜI NÓI ĐẦU
BÁT NHÃ BA LA MẬT là một trong những hệ tư tưởng của Đaị thừa Phật giáo Bắc tông. Bát Nhã Ba La Mật, Trung Hoa dịch: TRÍ TUỆ ĐÁO BỈ NGẠN. Thành ngữ đáo bỉ ngạn, chỉ cho sự viên vãn cứu kính, sự hoàn thành trọn vẹn về một lãnh vực tri thức, một công hạnh lợi tha, một sự giải thoát giác ngộ hoàn toàn..
Bát Nhã Ba La Mật, với nhà Phật học được xem là thứ trí tuệ cứu kính, so với các trí tuệ. Xử dụng trí tuệ đáo bỉ ngạn, con người có khả năng nhận thức thế giới, thông qua ngũ nhãn của mình. Khi đề cập thứ trí tuệ cứu kính, nhà Phật ít dùng từ trí tuệ theo nghĩa thông thường. Để chỉ thứ trí tuệ độc đáo cứu kính ấy, nhà Phật thường xử dụng nguyên
18 Tầng Địa Ngục trong Phật Giáo

18 Tầng Địa Ngục trong Phật Giáo

Trong Thập Bát Nê Lê kinh, địa ngục (Naraka) được chia thành 18 tầng. Đó là Quang Tựu Cư, Cư Hư Thối Lược, Tang Cư Đô, Lâu, Phòng Tốt, Thảo Ô Ti Thứ, Đô Lư Nan Đán, Bất Lư Bán Hô, Ô Cảnh Đô, Nê Lư Đô, Ô Lược, Ô Mãn, Ô Tịch, Ô Hô, Tu Kiện Cư, Vị Đô Can Trực Hô, Khu Thông Đồ, Trần Mạc. Toàn bộ đều là các loại tội hình đao binh sát thương, đại hoả đại nhiệt, đại hàn đại đống, đại khanh đại cốc.

Chúng ta hãy tham quan qua một lượt mười tám tầng địa ngục là như thế nào !

1. Bạt Thiệt Địa Ngục : phàm người tại thế hay khêu chọc li gián, phỉ báng hại người, chửi rủa người khác, gian ngôn xảo biện, nói dối gạt người, sau khi chết sẽ vào Bạt Thiệt Địa Ngục. Tiểu quỷ sẽ bạnh mồm rồi dùng kềm thép gấp lấy lưỡi rút ra, không phải là giựt một cái cho đứt hẳn mà là từ từ kéo cho dài ra. Sau đó chuyển nhập Tiễn Đao Địa Ngục, Thiết Thụ Địa Ngục.

2. Tiễn Đao Địa Ngục : Tại dương gian, nếu người chồng bất hạnh qua đời sớm, người vợ phải thủ quả. Nếu người làm cho quả phụ tái duyên hoặc giúp nàng làm mai làm mối câu dẫn đàn ông khác thì sau khi chết sẽ bị đưa vào ngục này, cắt đứt mười ngón tay. Ví như Vương Bà Bà trong Thuỷ Hử, vì lấy lòng Tây Môn Khánh mà mưu dẫn Phan Kim Liên, rồi độc hại Võ Đại Lang chính là loại người được cái vinh hạnh dẫn nhập Tiễn Đao Địa Ngục.

3. Thiết Thụ Địa Ngục : Phàm người tại dương gian li gián cốt nhục, chia rẽ phụ tử, phu thê, huynh đệ tỷ muội người khác, sau khi chết sẽ vào tầng này. Trên khắp thân cây đều là những lưỡi dao nhọn, cắm vào người từ phía sau lưng rồi treo lên trên cây. Sau thời gian chịu khổ hình sẽ chuyển sang Bạt Thiệt Địa Ngục, Chưng Lung Địa Ngục.

4. Nghiệt Kính Địa Ngục : Người phạm tội trên dương thế, dù không khai nhận hoặc chạy hết đường này cửa nọ, có thể man thiên quá hải thoát qua khỏi sự trừng phạt, nhưng vẫn xem như là một phạm nhân đào tội, đào vong suốt kiếp rồi cũng sẽ có một ngày phải chết ! Đến địa phủ báo cáo sẽ được đưa vào Nghiệt Kính Địa Ngục, chiếu rọi tội trạng. Sau đó sẽ được phân loại và chuyển vào các ngục khác.

5. Chưng Lung Địa Ngục : có loại người ngày thường hay để ý tất cả việc lớn nhỏ của gia trưởng, rồi tin xằng đồn bậy, hãm hại phỉ báng người ta, chính là loại người được ví là “mụ lưỡi dài”. Loại người này sau khi chết sẽ phải vào Chưng Lung Địa Ngục, bị nhốt vào lồng mà chưng. Không chỉ như vậy, sau khi chưng xong còn phải để gió lạnh thổi qua khắp người rồi chuyển vào Bạt Thiệt Địa Ngục.

6. Đồng Trụ Địa Ngục : Những kẻ thủ ác phóng hoả hại người, huỷ diệt tội chứng sau khi chết sẽ phải vào Đồng Trụ Địa Ngục. Các tiểu quỷ sẽ lột hết quần áo, bắt phải dùng thân thể ôm lấy cây cột đồng đường kính một thước cao hai thước. Trong cây đồng đang đốt than cháy và không ngừng quạt cho lửa bùng lên, cột đồng sẽ nhanh chóng nóng đỏ ! Đây chính là tương tự với “Bào Lạc” của Tô Đát Kỷ trong Phong Thần Diễn Nghĩa.

7. Đao Sơn Địa Ngục : Những kẻ khinh nhờn thần linh, người không tin cũng không sao, nhưng không thể vì thế mà khinh mạn họ; những kẻ sát sinh, chưa nói đến sát nhân mà chỉ cần nói đến giết trâu ngựa mèo chó thôi, vì chúng cũng là sinh mạng, có thể tiền kiếp chúng cũng là người. Vì âm ty không giống dương gian, không phân quý tiện cao thấp nên trâu ngựa mèo chó cũng như người đều được xem là sinh linh. Kẻ phạm một trong hai tội trên, sau khi chết sẽ vào Đao Sơn Địa Ngục, cởi bỏ mọi thứ trên người, dùng chính tấm thân trần trụi để leo lên núi đao. Xem xét phạm tội nặng nhẹ thế nào để định thời gian “cư trú” trên đó.

8. Băng Sơn Địa Ngục : Ác phụ mưu hại thân phu, thông gian với người khác, huỷ bỏ thai nhi, sau khi chết sẽ vào Băng Sơn Địa Ngục. Lột bỏ quần áo rồi lên núi băng. Ngoài ra, những kẻ ham mê cờ bạc, bất kính phụ mẫu, bất nhân bất nghĩa cũng đều phải lên núi băng cả. Đây chính là nơi mà Phan Kim Liên phải vào.

9. Dầu Oa Địa Ngục : Chơi bời trác tán, đầu trộm đuôi cướp, khinh hiền hiếp nhược, lừa gạt phụ nữ nhi đồng, vu cáo phỉ báng người khác, mưu chiếm tài sản vợ con người khác, sau khi chết sẽ vào ngục này. Lột hết quần áo để bị vào chảo dầu mà chiên, lật. Dựa theo phạm tội nặng nhẹ mà phán phải lật bao nhiêu lần. Có người tội nghiệt thâm trọng vừa từ băng sơn xuống lại bị giải vào vạc dầu.

10. Ngưu Khanh Địa Ngục : Đây chính là nơi để súc sinh kêu oan. Phàm người tại thế tuỳ ý tru sát súc sinh, đem sự vui thú của mình đặt trên sự đau khổ của chúng, sau khi chết sẽ bị giải vào đây để bị các con trâu hoang tụ lại, dùng sừng húc, dùng chân dẫm đạp.

11. Thạch Áp Địc Ngục : Người trên dương thế sinh ra một đứa con, bất luận là nguyên nhân gì, tánh tình si ngốc, tàn tật, hoặc do tư tưởng trọng nam khinh nữ, mà đem dìm chết đứa bé hoặc bỏ rơi nó. Hạng người này sau khi chết sẽ bị giải vào Thạch Áp Địa Ngục, trong ngục có một hồ đá lớn được dùng dây thừng treo những tảng đá lớn nhỏ khác nhau ở trên, người bị đưa vào hồ bên dưới, rồi dùng búa chém đứt dây thừng cho các tảng đá rơi xuống hồ.

12. Thung Cữu Địa Ngục : Khi người tại thế, lãng phí lương thực, chà đạp ngũ cốc, như thức ăn còn dư thừa đem phơi ngoài trời mà người lại dẫm đạp lên, hoặc không thích ăn nên chỉ nhón vài đũa rồi đem vứt. Sau khi chết sẽ bị đưa vào đây, đẩy vào cối để bị giã. Có một điều cũng khá lạ là người khi ăn cơm mà buông miệng văng tục, chửi rủa, … khi chết cũng bị đưa vào đây chịu tội.

13. Huyết Trì Địa Ngục
: Phàm người không tôn trọng người khác, bất hiếu với cha mẹ, không ngay thẳng, tính tình tà đạo, sau khi chết sẽ vào Huyết Trì Địa Ngục, chịu khổ trong bể máu. Ngay cả những người khó sinh, thổ huyết, nói chung là khi chết gặp máu đỏ cũng sẽ bị đưa vào ngục này (đoạn này hơi khó hiểu).

14. Uổng Tử Địa Ngục : Mọi người nên biết rằng có được một thân thể làm người trên thế giới này là một điều vô cùng khó khăn, chính là cơ hội được Diêm Vương ban cho mà người không biết quý trọng đi tự sát như cắt mạch máu, uống thuốc độc, treo cổ, … làm Diêm Vương nổi giận thì sau khi chết sẽ bị đưa vào Uổng Tử Địa Ngục, đừng bao giờ nghĩ đến việc trở lại kiếp người nữa ! Bất kể gặp phải gian nan như thế nào cũng nên ngoan cường mà sống, tự sát chỉ là biểu hiện của sự đớn hèn nhu nhược, đặc biệt là những người tuẫn tình tự vẫn.

15. Trách Hình Địa Ngục : những kẻ đào mộ bới phần người khác sau khi chết sẽ bị giải vào đây để chịu tội phanh thây xẻ thịt.

16. Hoả Sơn Địa Ngục : những kẻ bòn rút của công để làm giàu cho mình, ăn đút hối lộ, trộm gà cắp **** cướp bốc tiền tài, phóng hoả đốt nhà, sau khi chết sẽ vào tầng này để bị đuổi lên núi lửa cho lửa trên đường đi thiêu đốt mà không thể chết được. Ngoài ra còn cả những hoà thượng, đạo sĩ phạm giới cũng sẽ bị đuổi lên hoả sơn. Tầng này được xem là đông khách nhất.

17. Thạch Ma Địa ngục : Dẫm đạp ngũ cốc, đêm trộm ngày giựt, tham quan ô lại, hiếp đáp bách tính sau khi chết sẽ bị đưa vào Thạch Ma Địa Ngục, mài xát thành nhục tương, sau đó được phục hồi lại thân người để rồi lại bị mài xát. Hoà thượng, đạo sĩ ăn mặn cũng sẽ vào đây.

18. Đao Cư Địa Ngục
: ăn bớt tiền công vật liệu, dối trên lừa dưới, dụ dỗ phụ nữ nhi đồng, buôn bán dối trá sau khi chết đều được vào đây. Người vào sẽ bị lột hết y phục, tay chân bị cột vào bốn trụ dang ra theo hình chữ Đại (
), dùng lưỡi cưa kéo cắt từ đáy lên tới đầu.

Bình thường khi nói đến mười tám tầng địa ngục, về số mục thì đúng nhưng trên ý nghĩa thì không thể lý giải được. Trong Thập Bát Nê Lê Kinh nói về mười tám tầng địa ngục cũng có sai biệt, chủ yếu không phải về không gian mà là thời gian và hình pháp không tương đồng.

Thập Bát Địa Ngục sắp xếp theo thời gian dài ngắn chịu tội và đẳng cấp nặng nhẹ của tội hành. Nếu lấy thời gian thọ mệnh ở địa ngục so sánh với thời gian ở dương gian thì 1 ngày ở địa ngục là bằng 1750 năm tại dương thế, 30 ngày là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm, nhẹ nhất cũng phải ở đến 1 vạn năm, tức là 13 tỷ 500 triệu năm mới hết thọ, thoát ngục và chuyển tiếp sang ngục khác. Mỗi tầng địa ngục dưới đều tăng lên 20 lần khổ sở và gấp đôi thời gian so với tầng trên nó. Đợi đến tầng địa ngục thứ 18 thì thật không thể nào hình dung và tính toán nổi ngày tháng nữa.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
DUY MA CẬT – Tập I(Chương 5)

DUY MA CẬT – Tập I(Chương 5)


CHƯƠNG THỨ NĂM
VĂN THÙ BỒ TÁT THĂM BỆNH
Bấy giờ đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: “Văn Thù! Ông hãy đi thăm bệnh
Trưởng giả Duy Ma Cật”.
Bồ Tát Văn Thù thưa: “Bạch Thế Tôn! Bậc thượng nhân kia khó đối đáp với Ông khi đàm đạo. Ông đã quán triệt sâu sắc thực tướng. Thuyết pháp rất giỏi. Biện tài vô ngại, trí tuệ siêu thường. Ông biết hết pháp thức của Bồ Tát. Thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật. Hàng phục ma quân. Thần thông du hí. Trí tuệ, phương tiện đáng làm thầy người. Dù vậy, vâng lời Phật, con sẽ đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”.
Các Bồ Tát, Thinh văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương cùng có ý niệm: Nay hai vị đại sĩ Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật đàm đạo, chắc sẽ nói những pháp mầu nhiệm sâu xa. Chúng hội cả mấy ngàn người đều muốn tháp tùng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng tùy tùng hàng hàng, lớp lớp trang nghiêm cung kính đi vào Tỳ Da Ly đại thành để thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật.
1.- Ông Duy Ma Cật biết Bồ Tát Văn Thù và đại chúng sắp đến. Ông cho dẹp hết các vật sở hữu chỉ để tịnh thất trống. Không có thị giả và độc nhất có một cái giường, bệnh nhân là Ông Duy Ma Cật nằm choán hết.
2.- Bồ Tát Văn Thù vào thất thấy sự kiện có vẻ lạ thường chưa hỏi han được gì, trưởng giả Duy Ma Cật cất tiếng:
- Quý hóa thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi đến mà không có tướng đến. Thấy mà không có tướng thấy.
Bồ Tát Văn Thù đáp: Đúng vậy, thưa cư sĩ. Nếu đến thì lại chẳng đến. Nếu đi thì lại chẳng đi. Bởi vì đến không chỗ “Từ”. Đi không chỗ “Tới”. Gọi là “Thấy” kỳ thật chẳng thấy gì.
Thôi chúng ta gác lại chuyện ấy. Xin hỏi bệnh của cư sĩ có được đở chưa! Trị liệu có bớt không? Thế Tôn ân cần thăm hỏi và lo lắng lắm đó.
Do nguyên nhân gì cư sĩ phát sanh bệnh như thế? Bệnh đã bao lâu rồi và phải làm sao cho hết?
3.- Ông Duy Ma Cật nói: Vì có si mê ái nhiễm mà bệnh của tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh cho nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh không bệnh thì bệnh của tôi lành. Bởi vì Bồ Tát vì chúng sanh cho nên vào trong sanh tử. Có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh khỏi bệnh thì Bồ Tát không còn bệnh nữa. Ví như trưởng giả có một đứa con, đứa con bệnh, cha mẹ cũng bệnh theo. Nếu bệnh của con lành thì bệnh của cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như vậy. Với chúng sanh thương như con một. Chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh. Chúng sanh lành bệnh thì bệnh của Bồ Tát cũng lành.
Ngài hỏi: Do nguyên nhân gì, bệnh của tôi phát sanh.
4.- Xin thưa: Bệnh của Bồ Tát phát sanh do tâm đại bi.
Bồ Tát Văn Thù hỏi: Vì sao thất của Ngài trống không và không có thị giả? Trưởng giả Duy Ma Cật đáp:
- Cõi nước của chư Phật cũng không như vậy.
- Do đâu mà biết không?
- Do trong không cho nên biết không.
- Dùng không để không cái gì?
- Dùng không để không phân biệt.
- Đã không thì phân biệt được gì?
- Phân biệt cũng không.
- Tìm cái không ở đâu, dựa vào đâu để nhận biết?
- Dựa vào 62 kiến chấp của ngoại đạo.
- 62 kiến chấp phải tìm ở đâu?
- Tìm trong đức giải thoát của chư Phật.
- Đức giải thoát của chư Phật tìm ở đâu?
- Tìm nơi tâm tánh của tất cả chúng sanh.
5.- Thưa Ngài Văn Thù! Ngài hỏi vì sao tôi không có thị giả. Thưa Ngài: Tất cả
ma quân và các ngoại đạo là thị giả của tôi. Bởi vì ma quân rất ưa sanh tử, mà Bồ Tát thì ở trong sanh tử không xa rời. Ngoại đạo ưa kiến chấp, Bồ Tát thì ở trong kiến chấp mà không động.
5.- Bồ Tát Văn Thù hỏi: Bệnh của cư sĩ trạng huống ra sao?
- Bệnh của tôi không hình trạng không thấy được.
- Bệnh của Ngài thuộc thân hay thuộc tâm?
- Không phải thuộc thân vì tôi đã ly cái tướng thân. Cũng không phải thuộc tâm, vì tâm như huyễn.
- Địa, thủy, hỏa, phong, trong bốn đại, Ngài bệnh đại nào?
- Bệnh của tôi không phải địa đại nhưng không rời địa đại. Không phải thủy, hỏa, phong; cũng không rời thủy, hỏa, phong. Bệnh của chúng sanh phát từ tứ đại. Chúng sanh cho nên tôi bệnh.
7.- Bồ Tát Văn Thù hỏi: Khi một Bồ Tát nhuốm bệnh, vị Bồ Tát đi thăm bệnh phải thăm hỏi thế nào, nói những gì?
Ông Duy Ma Cật đáp: “Bồ Tát đi thăm bệnh nên nói: Rằng thân vô thường, nhưng không bảo phải chán bỏ thân. Rằng thân là khổ, nhưng không khuyên nhận cái vui Niết Bàn. Rằng thân là vô ngã, mà khuyến khích tích cực giáo hóa chúng sanh. Rằng thân rỗng lặng như hư không, nhưng không nói vĩnh viễn không như sừng thỏ, lông rùa. Rằng nên ăn năn tội trước, nhưng không nên ôm ấp những lỗi đã qua. Hãy quán xét bệnh của mình mà thương xót người đang có bệnh. Phải tự thức tỉnh rằng: ta đã từng khổ đau trong nhiều kiếp, mà đừng quên nghĩ đến việc lợi lạc cho chúng sanh. Nhớ làm phước đức, luôn nghĩ tường đến đời sống trong sạch. Không nên sanh tâm buồn rầu, thường khởi tâm tinh tấn. Ta phải làm vị đại y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh.
Bồ Tát đi thăm bệnh phải thăm hỏi như thế, an ủi như thế khiến cho Bồ Tát có bệnh phát khởi hoan hỉ.
8.- Văn Thù Sư Lợi hỏi: Thưa cư sĩ! Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình như
thế nào?
Trưởng giả Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát có bệnh nên quán chiếu và tư duy rằng, bệnh của ta hôm nay là do các phiền não vọng tưởng điên đảo đời này, đời trước mà sanh ra. Nó là pháp không thật thì ai là người thọ bệnh!
Thân nầy là kết quả của sự tổ hợp, nương gá tứ đại mà thành. Tứ đại không có chủ tể thì thân nầy là vật vô ngã. Bệnh sanh khởi là do chấp ngã. Vì vậy, đối với bản ngã không nên sanh tâm luyến ái chấp mắc.
9.- Đã biết nguồn gốc của bệnh, cần phải trừ bỏ quan niệm”chấp ngã” và “chúng sanh”. Chỉ lưu lại ý tưởng về “pháp”. Do các pháp hợp lại mà thành thân. Sanh chỉ là pháp sanh; diệt chỉ là pháp diệt. Pháp thì chẳng biết gì nhau. Khi sanh nó chẳng nói ta sanh. Khi diệt chẳng nói ta diệt. Tư duy như vậy, Bồ Tát có bệnh trừ diệt quan niệm về “pháp”. Lại tư duy rằng: quan niệm về “pháp” cũng chỉ là một thứ điên đảo. Điên đảo còn thì còn khổ não, còn bệnh hoạn. Thế nên Bồ Tát khởi ý tưởng “Ly”.
- Ly là thế nào?
- Ly ngã và ngã sở.
- Ly ngã, ngã sở là sao?
- Ly cả hai pháp.
- Ly cả hai pháp là thế nào?
- Ly nội tâm, ly ngoại cảnh, thể hiện tánh bình đẳng.
- Bình đẳng như thế nào?
- Bình đẳng về ý niệm ngã và bình đẳng về ý niệm Niết bàn. Nhận thức rõ rằng: Ngã vốn không, Niết-bàn cũng chẳng có. Ngã và Niết bàn đều không.
- Do gì biết đó là không?
- Tư duy rằng chúng chỉ dựa trên văn tự mà giả lập. Chúng không có tính quyết định. Hiểu được tính bình đẳng đó thì không còn bệnh nào khác., chỉ có bệnh”không”. Cuối cùng “không” cũng không. Bấy giờ Bồ Tát có bệnh xử dụng vô sở thọ mà thọ cái thọ. Khi nào Phật pháp chưa đầy đủ, cũng không diệt thọ để nhận lấy quả sở chứng. Giả sử thân có khổ, nhớ nghĩ chúng sanh trong ác thú mà khởi lòng đại bi: rằng ta đã điều phục cũng sẽ điều phục cho chúng sanh. Vì vậy chỉ trừ bỏ bệnh chấp mà không trừ bỏ “pháp”. Vì muốn trị dứt gốc bệnh của chúng sanh mà giáo hóa họ.
10.- Thế nào là gốc bệnh?
- Gốc bệnh có vì có tâm phan duyên. Chừng nào còn có tâm phan duyên thì gốc bệnh còn.
- Đối tượng phan duyên là gì?
- Đối tượng phan duyên là tam giới.
- Làm sao đoạn được phan duyên?
11.- Muốn đoạn phan duyên phải vô sở đắc. Vô sở đắc thì hết phan duyên.
- Sao gọi là vô sở đắc?
- Vô sở đắc có nghĩa là vĩnh ly hai thứ kiến chấp.
- Hai thứ kiến chấp là gì?
- Là nội kiến và ngoại kiến. Nội kiến là chấp bản ngã của tự thân.Ngoại kiến là chấp hiện tượng vạn pháp bên ngoài.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đây là những điều Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình. Nhằm dứt trừ các khổ, lão, bệnh, tử. Đó là Bồ Đề của Bồ Tát. Nếu không như thế thì việc tu sửa của mình sẽ không có được trí tuệ sắc bén. Ví như có chiến thắng đối thủ ngoan cường thì mới gọi là chàng dũng sĩ! Được vậy, Bồ Tát gọi đó là người chiến sĩ tiêu trừ giặc cướp: lão, bệnh, tử.
12.- Bồ Tát có bệnh còn quán chiếu tư duy rằng: Bệnh của ta đây không thật có. Bệnh của chúng sanh cũng không thật có. Quán chiếu tư duy như thế đối với chúng sanh. Nếu sanh khởi lòng đại bi ái kiến thì cần phải xả ly. Bởi vì Bồ Tát nhằm đoạn trừ khách trần phiền não mà phát khởi lòng đại bi. Nếu lòng đại bi còn có tâm ái kiến thì ở trong sanh tử sẽ có lúc mỏi mệt mà thoái thoát đạo tâm. Xa lìa đại bi ái kiến thì hóa độ chúng sanh đời nầy, kiếp khác cùng không có chán nản mỏi mệt. Người không bị ràng buộc mới dạy cách mở cho người ràng buộc. Đang bị ràng buộc mà dạy cách mở ràng buộc cho người khác là chuyện không thể có. Mình không bị ràng buộc, mở ràng buộc giúp cho người khác là việc dễ dàng! Thế nên Bồ Tát không nên làm những điều gì khiến cho mình bị ràng buộc.
13.- Thế nào là bị ràng buộc. Thế nào là được mở ràng buộc?
- Đam mê thiền vị là Bồ Tát bị ràng buộc. Xử dụng các phương tiện trong sinh hoạt bình thường là Bồ Tát không bị ràng buộc.
Lại nữa Bồ Tát không phương tiện, không trí tuệ là bị ràng buộc. Có phương tiện có trí tuệ là Bồ Tát được mở ràng buộc.
- Thế nào là không phương tiện, không trí tuệ, Bồ Tát bị ràng buộc?
- Nghĩa là Bồ Tát dùng tâm ái kiến mà trang nghiêm cõi Phật hóa độ chúng sanh. Dùng “không”, “vô tướng”, “vô tác” mà điều phục tâm mình. Đó là Bồ Tát không phương tiện, không trí tuệ, Bồ Tát bị ràng buộc.
- Có trí tuệ, có phương tiện, Bồ Tát được mở ràng buộc là thế nào?
- Nghĩa là Bồ Tát lìa xa các tham dục, sân nhuế tà kiến, các phiền não mà trồng cội phước, hồi hướng thẳng vô thượng Bồ Đề. Đó là có trí tuệ, có phương tiện, Bồ Tát đưọc mở ràng buộc.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh phải nên quán các pháp như thế.
Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó là trí tuệ. Thân dù có bệnh mà ở trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không chán nản, mỏi mệt. Đó là có phương tiện.
Lại quán về thân. Thân không rời bệnh, bệnh không rời thân. Thân ấy, bệnh ấy không phải mới, không phải cũ gọi đó là trí tuệ. Thân dù có bệnh mà không diệt thân, gọi đó là phương tiện.
14.- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm mình. Không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm bất điều phục. Vì trụ tâm bất điều phục là pháp của phàm phu. Trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Thế nên, Bồ Tát không trụ ở tâm điều phục và tâm bất điều phục. Ly đuợc cả hai pháp, thì Bồ Tát làm việc ở sanh tử mà không bị nhiễm ô. Trụ ở Niết bàn mà không diệt độ hẳn. Thế nên Bồ Tát hạnh không phải là hạnh phàm phu cũng không phải là hạnh hiền thánh. Bồ Tát hạnh không phải hạnh cấu, cũng không phải hạnh tịnh.
15.- Bồ tát hạnh dù vượt quá hạnh ma màhiện hàng phục các ma. Bồ tát hạnh cầu nhất thiết trí mà không cầu phi thời. Bồ tát hạnh dù quán các pháp không sanh mà không vào chánh vị. Bồ tát hạnh dù quán thập nhị nhân duyên mà tham nhập các tà kiến. Bồ tát hạnh dù chinh phục tất cả chúng sanh mà không luyến ái. Bồ tát hạnh dù ưa vui với hạnh viễn ly mà không có ý tưởng diệt hết tướng thân tâm. Bồ tát hạnh dù sanh hoạt trong tam giới mà không tổn hoại pháp tánh. Bồ tát hạnh dù không chấp ở việc làm phúc đức mà vẫn trồng các cội phước đức. Bồ tát hạnh dù thấy tất cả vô tướng mà vẫn cứu độ chúng sanh. Bồ tát hạnh dù biết vạn pháp vô tác mà vẫn hiện thọ thân. Bồ tát hạnh dù việc làm vô khởi mà khởi các hạnh lành. Bồ tát hạnh dù thực hành lục ba la mật mà phổ biến khắp đủ tâm và tâm sở pháp của chúng sanh. Bồ tát hạnh dù thực hành đủ lục thông mà không hết hoặc lậu. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ vô lượng tâm mà không tham đắm sanh cõi Phạm thế. Bồ tát hạnh dù thực hành thiền định, giải thoát tam muội mà không đam nhiễm vị thiền. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ niệm xứ mà không vĩnh viễn xa lìa thân, thọ, tâm, pháp. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ chánh cần mà không bỏ rời sự tinh tấn của thân tâm. Bồ tát hạnh dù hành tứ như ý túc mà được tự tại thần thông. Bồ tát hạnh dù thực hành ngũ căn mà phân biệt các căn lợi độn của chúng sanh. Bồ tát hạnh dù thực hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực. Bồ tát hạnh dù thực hành thất giác chi mà phân biệt trí tuệ Phật. Bồ tát hạnh dù thực hành bát chánh đạo mà ưa thực hành vô lượng Phật đạo. Bồ tát hạnh dù thực hành pháp chỉ quán trợ đạo mà không bị rơi vào tịch diệt hoàn toàn. Bồ tát hạnh dù biết rõ các pháp không sanh, không diệt mà vẫn dùng tướng hảo trang nghiêm thân. Bồ tát hạnh dù hiện oai nghi Thanh văn, Duyên giác mà không rời pháp Phật. Bồ tát hạnh dù tùy thuận thật tướng mà vẫn tùy thuận chỗ hiện thân cần thiết. Bồ tát hạnh dù quán đất nước chư Phật vắng lặng như hư không mà hiện cảnh trí thanh tịnh của cõi Phật. Bồ tát hạnh dù được thành Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn mà không rời bỏ đạo Bồ tát.
Sau khi Trưởng gia Duy Ma Cật nói thời pháp ấy có tám ngàn Thiên chúng tùy tùng phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.
TRỰC CHỈ
1.- Tịnh thất trống, tiêu biểu “Nhất chân pháp giới, vạn pháp giai không” mhằm xiển dương chân lý:
“Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc là không, không là sắc”.
Một giường, một thân. Một thân nằm trên một giường, tiêu biểu pháp thân và huyễn thân bất ly. Pháp thân không rời huyễn thân. Huyễn thân ở trong pháp thân.
“Huyễn hóa không thân tức pháp thân”.
2.- Nếu đứng bên mé sông, trên bờ biển, người ta sẽ thấy chiếc thuyền đi từ địa
điểm này đến địa điểm nọ: Đi từ Thái Bình Dương sang đến Đại Tây Dương chẳng hạn…
Qua sự thấy biết đó, người ta cho rằng chiếc thuyền có Đi có Đến.
Giả sử người ta được nhìn thấy qua cái nhìn thấy cao rộng của phi hành gia vũ trụ thì sự Đi và Đến của chiếc thuyền kia chẳng có nghĩa lý gì cả, vì nó chưa có phút giây tạm rời khỏi mặt địa cầu.
Sự di chuyển “Đến”, “Đi” của con người trong pháp giới “nhất chân” cũng chẳng có nghĩa gì.
Nhìn bằng tuệ nhãn, Bồ tát thấy rõ: “Đến mà không có tướng đến”
“Đi không chỗ khởi hành”
Bởi trong quá trình Đi, Đến không có giây phút tạm rời pháp giới nhất chân.
“Tánh thấy” và “đối tượng thấy”. Phải học cách nhìn “Pháp nhĩ như thị”, người đệ
tử Phật mới có cơ may nhận thức được chân lý.
Pháp nhĩ như thị nghĩa là thấy mà không có tướng thấy. Thấy cũng như không thấy, không thấy cũng như thấy. Có cũng như không có. Không có cũng như có. Có là không. Không là có. Vì biết rằng: thật tướng của các Pháp là vô tướng.
3.- Sanh, lão, bệnh, tử đối với Bồ tát không có gì đáng nói. Vì đó là quy luật phổ
biến. Nó là chân lý của cuộc đời. Có gì phải bận tâm Bồ tát.
Bồ tát Duy Ma Cật bệnh, chỉ là một cái cớ được tạo ra nhằm triển khai thật tướng, chỉ bày pháp tánh, giới thiệu pháp thân, xiển dương đệ nhất nghĩa của Đại thừa.
Vì gió độc si ái làm cho Bồ tát sanh bệnh. Vì chúng sanh bệnh mà Bồ tát bệnh. Chừng nào chúng sanh hết bệnh, thì bệnh Bồ tát lành.
Bồ tát thương chúng sanh như cha mẹ thương con. Con bệnh cha mẹ bệnh theo. Con lành bệnh, bệnh cha mẹ cũng lành.
Bệnh của Bồ tát phát sanh do tâm đại bi.
4.- Cõi nước của chư Phật cũng trống không, thất của Bồ tát Duy Ma Cật cũng trống không, nhằm khai thị đạo lý “Hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
Tuy nhiên người đạt đạo phải tìm thấy “Cái không ngay trong cái có”.
Đó là cái nhìn cũa tuệ nhãn: Đương thể tức không của Bồ tát.
5.- Ma quân ưa sanh tử. Bồ tát ở trong sanh tử không rời. Ngoại đạo đam mê kiến chấp, Bồ tát ở trong kiến chấp mà không động.
rồi.
Do vậy Bồ tát không cô đơn. Ma quân và ngoại đạo là người hầu cận, là “thị giả”
6.- Bệnh của Bồ tát không thuộc thân, vì Bồ tát đã ly “thân tướng”. Cũng không phải thuộc tâm, vì Bồ tát biết rõ “tâm như huyễn”.
7.- Khi thăm bệnh, Bồ tát cần nhắc nhở bệnh nhân về sự vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh của thân, nhưng không khuyến khích chán nản thân, bi quan, yếm thế và tiêu cực vì thân.
Hãy quán xét bệnh của mình, mà nghĩ đến bệnh khổ của chúng sanh. Hãy phát chí nguyện làm vị đại y vương để trị bệnh cho tất cả.
8.- Bồ tát có bệnh nên tự quán chiếu rằng: Bệnh của ta do phiền não vọng tưởng
điên đảo, do chấp ngã pháp mà sanh. Có điên đảo thì có bệnh khổ.
9.- Muốn trừ diệt bệnh khổ, Bồ tát khởi ý tưởng “Ly”. Ly ngã, ngã sở. Ly nội tâm, ly ngoại cảnh. Khởi ý niệm bình đẳng rằng: Ngã vốn không và Niết bàn cũng chẳng có.
10.- Gốc bệnh của chúng sanh là tâm phan duyên. Chừng nào chúng sanh còn tâm phan duyên thì gốc bệnh còn.
11.- Muốn đoạn tâm phan duyên phải “Vô sở đắc”.Muốn được vô sở đắc phải viễn ly chấp ngã và chấp pháp.
12.- Bồ tát cứu độ chúng sanh không được có lẫn tâm ái kiến. Nếu lòng đại bi mà có lẫn ái kiến thì việc độ sanh sẽ có lúc mỏi mệt nản lòng.
13.- Trong việc độ sanh, thực hiện đúng chánh pháp, Bồ tát tự tại trong nhiệm vụ lợi tha. Thực hiện sai chánh pháp, Bồ tát có thể bị ràng buộc, mắc mứu, chướng ngại sự giải thoát giác ngộ của mình.
Nếu Bồ tát còn mống niệm đam mê, trụ chấp dù là đam mê trụ chấp thiền định lục ba la mật, Bồ đề, Niết bàn, Bồ tát bị ràng buộc rồi.
Bồ tát phải thường xuyên xử dụng trí tuệ, luôn luôn vận dụng phương tiện trong việc độ sanh là Bồ tát được cởi mở ràng buộc.
14.- Bồ tát có bệnh điều phục tâm mình bằng cách: không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm bất điều phục. Bởi vì trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Trụ ở tâm bất điều phục là pháp của phàm phu.
15.- Bồ tát phải thể hiện Bồ tát hạnh. Không thể hiện Bồ tát hạnh thực nghĩa Bồ tát không còn.
Bồ tát hạnh không phải là hạnh phàm phu, cũng không phải là hạnh hiền thánh. Bồ tát hạnh không phải hạnh cấu nhiễm cũng không phải hạnh thanh tịnh.
Bồ tát hạnh: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”.
Trang: 1 2 3 4